Lâm Vĩnh Thế


ĐaKao : Một Trung Tâm Văn Hóa

 

Trước năm 1975, vùng Đakao thuộc Quận I của thủ đô Sài Gòn. Trong thời Pháp thuộc, vùng này có tên là Đất Hộ. Tuy hiện nay chưa có những tài liệu nghiên cứu nghiêm chỉnh và có hệ thống về lịch sử của vùng đất nầy khiến ta không rõ về nguồn gốc của địa danh nhưng có thể khẳng định đây là một trong những vùng đất được khai thác từ lâu đời nhất của Saigon, có lẽ đã trên một trăm năm. Một bằng chứng cụ thể là Chùa Ngọc Hoàng, ở đường Phạm Đăng Hưng, theo sách "Saigon Năm Xưa" của cố học giả Vương Hồng Sển, nguyên Giám Đốc Viện Bảo Tàng Saigon, đã được xây cất từ năm 1905. Điều nầy có thể giải thích phần nào do vị trí nằm sát Rạch Thị Nghè, một nhánh của Sông Saigon, một trục giao thông quan trọng, nhất là trong giai đoạn mới bắt đầu khai thác của thực dân Pháp. Với vị thế là một vùng đất xưa, Đakao đã có một đời sống văn hóa khá đậm nét về nhiều mặt. Một điều đặc biệt cần lưu ý là khu Đakao, so với phần lớn những khu vực khác trong thành phố Saigon, có một mật độ rất cao về cơ sở văn hóa.

 

Các Cơ Sở Giáo Dục

Trước hết xin nói về các cơ sở của Bộ Giáo Dục. Hầu hết các bộ phận đầu nảo của Bộ đều tọa lạc trong khu Đakao. Trụ sở của Bộ Giáo Dục, với các bộ phận trực thuộc như Nha Du Học, Nha Kế Hoạch, đều nằm tại khu vực ngã tư Lê Thánh Tôn và Hai Bà Trưng. Hai bộ phận khác cũng rất quan trọng của Bộ là Tổng Nha Trung, Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục, và Nha Khảo Thí đều tọa lạc tại đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, đối diện với Sở Thú. Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Học Vụ thì được đặt tại đường Mạc Đĩnh Chi, đối diện với Nha Khí Tượng. Ty Tiểu Học Saigon thì nằm trong khuôn viên của Trường Nữ Tiểu Học Đakao, trên đường Phan Đình Phùng, đối diện với Phòng Thí Nghiệm Vi Trùng Học.

Về các trường đại học, sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, thành Cộng Hòa, nơi đồn trú của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, đã được biến thành trụ sở của hai trường Văn Khoa và Dược Khoa. Về sau Trường Nông Lâm Súc cũng được đưa về đây luôn. Hai Trường Luật Khoa, nằm trên đường Duy Tân, và Kiến Trúc, nằm gần ngã tư Duy Tân và Phan Đình Phùng, cũng như trụ sở của Viện Đại Học Saigon, nằm ngay tại Công Trường Chiến Sĩ (mà sau năm 1975 dân chúng Saigon thường gọi là Hồ Con Rùa), bên cạnh trường Luật Khoa, cũng có thể xem là thuộc khu Đakao.

Về các trường trung học công lập, thì phải kể ngay đến trường nam Võ Trường Toản, và trường nữ Trưng Vương, nằm ngay bên cạnh Tổng Nha Trung, Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục. Trong thời Pháp thuộc, tại địa điểm nầy là Ecole Normale (Trường Sư Phạm) đào tạo giáo viên tiểu học cho cả Nam Kỳ. Cả hai trường Võ Trường Toản và Trưng Vương đều là trường trung học đệ nhị cấp (sau 1975, chính quyền mới gọi là trường phổ thông cấp ba), dạy đến lớp đệ nhứt, tức là lớp đi thi bằng cấp Tú Tài II. Ngoài ra, tại đường Hồng Thập Tự, ngó ngay ra ngã ba với đường Phùng Khắc Khoan, từ thập niên 60 trở đi, ta còn thấy có trường Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ. Trường nầy chỉ là một trường trung học đệ nhất cấp mà thôi.

Về các trường trung học tư thục, thì khu Đakao tập trung phần lớn các trường nổi tiếng của Saigon. Vào đầu thập niên 50, khi chương trình Pháp vẫn còn được giảng dạy song song với chương trình Việt, thì phải kể đến hai trường quan trọng là trường Vương Gia Cần*, nằm trong một biệt thự có lầu ở đường Phan Thanh Giản, đối diện với ngã ba Phan Kế Bính, và trường Les Lauriers, ở đường Mạc Đĩnh Chi, giữa ngã ba Phan Thanh Giản và ngã tư Tự Đức, sau dời về đường Đinh Công Tráng, gần ngã ba Lý Trần Quán, và đổi tên là trường Tân Thịnh. Các trường dạy chuyên về chương trình Việt thì quan trọng nhứt phải kể đến trường Huỳnh Khương Ninh, nằm trên đường D'Ariès, gần đầu ngã ba với đường Paulin Vial. Trường nầy có từ rất lâu đời, gồm một dãy nhà hai tầng khang trang, dạy cả tiểu học và trung học, điều hành bởi một ban giám đốc và giảng huấn có khả năng, tận tâm và yêu nghề, và đặc biệt là có tinh thần yêu nước cao. Chính vì thế, trong thời Pháp thuộc, trường nầy đã là mục tiêu theo dõi thường xuyên của mật thám Pháp. Sang thời Cộng Hòa, trường nầy cũng lại là nơi tập trung một số cán bộ đảng viên của đảng Cộng Sản, nên cũng vẫn tiếp tục bị theo dõi nghiêm nhặt bởi Tổng Nha Cảnh Sát. Sau ngày 30-4-1975, vị Hiệu Trưởng của trường nầy đã được chính quyền quân quản đề cử làm Giám Đốc đầu tiên của Sở Giáo Dục Thành phố Hồ Chí Minh. Kế đến là các trường Huỳnh Thị Ngà, ở đường Trần Nhật Duật, và trường Việt Nam Học Đường, ở cuối đường Đặng Tất. Sau thập niên 60, thì có thêm hai trường là trường Văn Hiến, ở đường Trần Quang Khải, gần rạp chớp bóng Văn Hoa, và trường Tân Thanh*, ở đường Trần Quý Khoách, sau lưng trường Việt Nam Học Đường. Một trường trung học tư thục nữa ở Đakao là trường Đông Tây Học Đường, nằm ở đường Hai Bà Trưng, đối diện với ngã ba đường Tự Đức. Trường nầy chỉ sống được mấy năm vì ít học sinh và vì kết quả giáo dục tương đối kém nên không cạnh tranh nổi với các trường tư thục khác trong vùng. Ngoài ra cũng phải kể đến trường chuyên dạy Anh ngữ đầu tiên của Saigon là Trường Anh ngữ Trần Gia Độ, nằm trên đường Phạm Đăng Hưng, gần chùa Ngọc Hoàng (về sau là địa điểm của Võ dường Nhu đạo của Thượng Tọa Thích Tâm Giác).

Tất cả các trường trung học tư thục nầy, dù nhiều dù ít, đều đã có những đóng góp quan trọng vào việc giáo dục thanh thiếu niên ở cấp trung học trong một thời gian dài, nhất là trong thập niên 50 (trước 19540) vì lúc đó tại Saigon chỉ có một trường trung học công lập duy nhất là Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký ở mãi tận trong khu Nancy, gần Chợ Lớn. Tất cả học sinh Saigon, sau khi thi đậu bằng Tiểu Học, đều phải trải qua kỳ thi tuyển vào trường Pétrus Ký. Năm 1953 khi tôi tham dự kỳ thi tuyển nầy, trường Pétrus Ký chỉ lấy vào 550 học sinh cho 10 lớp Đệ Thất. Những học sinh rớt kỳ thi tuyển nầy không còn cách nào khác hơn là phải theo học tại các trường trung học tư thục.

Về các trường tiểu học công lập, khu Đakao có hai trường, trường nam nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng, giữa hai đường Tự Đức và Nguyễn Thành Ý, và trường nữ, nằm trên đường Phan Đình Phùng, cùng một địa điểm với Ty Tiểu Học Saigon. Tôi theo học trường nam suốt bậc tiểu học, cho đến khi thi đậu vào trường Trung Học Pétrus Trương Vĩnh Ký, nên đã có rất nhiều kỷ niệm với ngôi trường nầy. Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây để nói thêm vài điều về giáo dục tiểu học và ngôi trường nầy. Chương trình giáo dục tiểu học lúc đó đã được chuyển ngữ, dùng tiếng Việt để giảng dạy, nhưng vẫn còn phải học môn Pháp văn. Tên gọi của các cấp lớp đều dùng cả hai ngôn ngữ: Lớp Năm (nôm na gọi là Lớp Chót) - Cours Enfantin, Lớp Tư - Cours Préparatoire, Lớp Ba - Cours Élementaire, Lớp Nhì - Cours Moyen, Lớp Nhứt - Cours Supérieur, và Lớp Tiếp Liên - Cours Certifié. Về thi cử, hết Lớp Ba thì phải qua một kỳ thi lấy văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học, đậu thì mới được lên Lớp Nhì. Hết Lớp Nhứt thì phải đi thi lấy văn bằng Tiểu Học. Đậu bằng Tiểu Học rồi thì mới được làm đơn xin dự kỳ thi tuyển vào Lớp Đệ Thất của trường Trung Học Pétrus Ký. Những người thi rớt kỳ thi tuyển nầy, muốn năm sau thi lại, thì xin vào học Lớp Tiếp Liên. Trong thời gian tôi theo học, trường nam Tiểu Học Đakao có 2 lớp cho mỗi cấp, trừ cấp Tiếp Liên chỉ có một lớp thôi. Xin đóng dấu ngoặc lại ở đây.

Về các trường tiểu học tư thục, khu Đakao có rất nhiều cơ sở như thế nhưng tôi không còn nhớ được hết, nên chỉ xin kể ra đây những trường tôi còn nhớ được. Trường đầu tiên tôi muốn nói đến là trường Quốc Học, không phải vì nó là trường lớn nhứt hay quan trọng nhứt mà chỉ vì đó là ngôi trường tôi theo học đầu tiên trong đời. Đó là cuối năm 1947, tôi mới được 6 tuổi, mẹ tôi đóng tiền cho tôi vào học Lớp Chót tại trường nầy để chuẩn bị cho tôi năm sau sẽ xin vào trường Tiểu Học Đakao. Ngôi trường nầy nằm ở đường Legrand de la Liraye (sau gọi là đường Phan Thanh Giản), gần ngã tư với đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng), ngay đằng sau tiệm hủ tiếu của người Hoa ở ngã tư nầy. Trường nầy chỉ là một căn phố và có 3 lớp mà thôi, một Lớp Chót, một Lớp Tư và một Lớp Ba. Tôi theo học tại trường nầy độ 5 hay 6 tháng gì đó mà thôi, đủ để biết đọc, biết viết, và thuộc cửu chương. Sau trường nầy thì phải kể đến các trường nằm trên đường Paul Bert (Trần Quang Khải) mà tôi chỉ còn nhớ tên được một trường mà thôi, đó là trường Lễ Văn (chắc là đặt tên theo câu Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn).

Từ cuối thập niên 50 trở đi, mới thấy xuất hiện các trường Mẫu Giáo, và khu Đakao cũng có hai cơ sở lớn và nổi tiếng, đó là Trường Michelet, sau đổi tên là Rạng Đông, ở đường Hiền Vương, gần ngã ba Lý Trần Quán, và Trường Mạnh Mẫu, nằm trong đường Lý Trần Quán.

 

Các Cơ Sở Tôn Giáo

Song song với cơ sở giáo dục như vừa kể qua ở trên, các cơ sở tôn giáo trong vùng mới chính thật là nét văn hóa đặc thù của khu Đakao.

Trước hết xin nói về các ngôi đình. Tôi tin rằng trong toàn thành phố Saigon không có khu vực nào có nhiều đình như khu Đakao và tập trung trong một diện tích nhỏ hẹp như vậy.

Nội trên đường Trần Quang Khải thôi ta đã có đến 4 ngôi đình. Ở khoảng đầu đường, đi vào từ ngã tư với đường Đinh Tiên Hoàng, bên phải có một ngôi đình mà tôi không còn nhớ tên, ngôi đình nầy bề ngoài trông như một căn phố, không có sân; cách đó chừng mười lăm mét, bên tay trái là ngôi đình lớn nhứt trong toàn khu Đakao, đó là đình Nam Chơn. Đình nầy có sân rất rộng, có cả một cây đa cổ thụ ngay ở trước, phía bên trong vách tường bằng gạch ở mặt tiền. Chính dưới bóng mát của cây đa nầy là các bàn hớt tóc mà tôi đã có nói đến trong phần các con đường. Vào bên trong, tòa nhà của đình với điện thờ nằm bên tay trái, phần còn lại là một khoảng sân đất rất rộng, đây là nơi dựng rạp khi cúng kỳ yên. Rạp được dựng lên bằng vải và được sử dụng cho hai việc: ban ngày là nơi để cho khách đến cúng đình ngồi nghỉ uống nước, ghi sổ cúng tiền, và chờ đợi đến phiên mình vào lễ khi bên trong điện đã quá chật, ban đêm trở thành rạp hát để trình diễn các vở tuồng hát bội. Sau đình Nam Chơn, ra đến gần ngã ba với đường Nguyễn Phi Khanh, bên tay phải lại có một ngôi đình nhỏ nữa, tôi cũng không nhớ tên ngôi đình nầy, chỉ nhớ ngôi đình nằm bên cạnh một con hẻm nhỏ, và là nơi đóng đô thường trực của một đoàn hát bội nhỏ. Qua khỏi ngã ba Nguyễn Phi Khanh, tại ngay ngã ba với đường Bà Lê Chân, là đình Phú Hòa, với cửa vào quay ra đường Bà Lê Chân, chính tại đây có quán cà phê của nghệ sĩ cải lương lừng danh Bảy Nhiêu. Đình Phú Hòa thường được các đoàn cải lương lớn dùng làm nơi tập tuồng mới.

Trên đường Nguyễn Phi Khanh, ngay ngã ba với đường Huyền Quan, gần ra tới ngã ba với đường Trần Quang Khải, cũng có một ngôi đình lớn là đình Sơn Trà. Đình nầy chỉ nhỏ hơn đình Nam Chơn thôi, phía trước và dọc theo cạnh đường Huyền Quan là hàng rào cây sống. Trước mặt tiền của điện thờ cũng là một sân đất lớn và, cũng như đình Nam Chơn, đây là nơi dựng rạp trong các dịp cúng kỳ yên. Chính tại ngôi đình nầy tôi đã được mẹ tôi cho đi theo để coi những  vở tuồng hát bội nổi tiếng của thời đó như tuồng San Hậu, Huê Dung Đạo, Thần Nữ Dưng Ngũ Linh Kỳ, Trảm Trịnh Ân..., với các cô đào hát bội một thời vang bóng như Cô Năm Đồ, Cô Cao Long Ngà... Tôi còn nhớ mãi cái không khí ngột ngạt của các đêm hát bội tại đây. Rạp bằng vải bố, che không cao lắm, bên trong rạp rất chật, và nóng bức. Sân khấu bằng gỗ cũng không cao lắm, và gần như lúc nào cách bài trí cũng giống nhau, dầu là cảnh nhà dân, nhà quan, hay cung vua, cũng chỉ thấy có một cái bàn với hai cái ghế để ở hai bên, cả bàn và ghế đều có tấm phủ mầu sắc đẹp. Ngay đưới sân khấu, chỉ có hai hay ba hàng đầu là để ghế, các hàng còn lại toàn là băng gỗ. Ngay trước cái ghế ở chính giữa hàng ghế đầu có để một cái trống lớn, và người ngồi ở cái ghế đó thỉnh thoảng cầm cây chầu đánh vào trống mấy cái thùng thùng. Về sau lớn lên tôi mới biết đó là một vị chức sắc trong đình có nhiệm vụ "cầm chầu" để làm cái việc đánh giá cách trình diễn của các nghệ sĩ trên sân khấu. Thỉnh thoảng người đi xem cũng tham gia vào việc tán thưởng các nghệ sĩ bằng tiền, họ kẹp tiền vào các cây quạt xếp bằng giấy và liệng quạt lên sân khấu. Đoàn hát luôn luôn có người phụ trách đi lượm các cây quạt, gỡ tiền ra và mang quạt không trả lại cho khán giả.

Trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngay ngã tư với đường Tự Đức, là đình Tân An, cũng là nơi đóng quân của một đoàn cải lương nhỏ. Tôi không có kỷ niệm gì về ngôi đình nầy.

Ngoài ra khu Ðakao còn cái đình nhỏ nữa. Đình nầy nằm trong một con hẻm trổ ra gần nơi đường Đinh Tiên Hoàng gặp đường Hiền Vương. Con hẻm nầy ăn thông ra đến đường Huỳnh Khương Ninh. Tôi không còn nhớ tên ngôi đình nầy.

Như thế là trong một khu vực với diện tích chưa tới một cây số vuông, ta có tất cả 7 ngôi đình. Nếu tính theo đường chim bay, hai ngôi đình lớn nhứt trong khu Đakao, đình Nam Chơn và đình Sơn Trà, cách nhau chưa tới hai trăm mét. Hồi còn nhỏ tôi hoàn toàn không nghĩ gì về mật độ tập trung nầy của các ngôi đình trong vùng. Về sau lớn lên, nhất là tôi lại học về ngành sử, nét văn hóa đặc thù nầy làm tôi thấy thắc mắc nhiều. Vì thông thường mỗi làng chỉ có một ngôi đình mà thôi, làm nơi thờ thành hoàng bổn cảnh. Làng ở trong Nam lại thông thường có diện tích rất lớn. Thật khó tin là khu vực nhỏ bé nầy của Đakao, nơi quy tụ bảy ngôi đình nầy, ngày xưa là địa hạt của bảy cái làng. Nhưng nếu không phải như vậy thì tại sao lại có tới bảy cái đình. Tôi đã có dự định làm một cuộc nghiên cứu về các ngôi đình nầy để tìm câu trả lời nhưng chưa bao giờ làm được vì nhiều lý do ngoài ý muốn. Cho đến một hôm vào khoảng cuối năm 1974, rất tình cờ, thắc mắc nầy của tôi đã được giải đáp một phần nào. Hôm đó tôi đi họp ủy ban tại trụ sở của Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục (HĐVHGD) ở đường Trần Quý Khoách mà tôi là một thành viên. Trong khi chờ họp, tôi ngồi trò chuyện với  cụ Đỗ Văn Rở, Thứ Trưởng Bộ Văn Hoá Giáo Dục Đặc Trách Văn Hóa, Phó Chủ Tịch Văn Hóa của HĐVHGD (ở nhiệm kỳ 2 nầy của HĐVHGD, 1974-1977, Chủ Tịch HĐVHGD là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Phó Chủ Tịch Giáo Dục của Hội Đồng là Giáo Sư Trần Văn Tấn, Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Saigon). Tôi không còn nhớ chúng tôi đã khởi đầu câu chuyện như thế nào nhưng sau một hồi thì câu chuyện xoay quanh các ngôi đình của vùng Đakao. Tôi chợt nhớ lại thắc mắc của mình nên đem vấn đề ra hỏi cụ Rở. Không suy nghĩ gì cả, cụ nói ngay ý nghĩ của cụ ra cho tôi nghe, và tôi nhận thấy cụ rất có lý, và đây có thể là mấu chốt của vấn đề. Theo cụ Rở, những người đã dựng lên các ngôi đình nầy là những di dân thuộc các làng chài lưới đánh cá từ miền nam Trung phần vào. Tiếng địa phương gọi các làng chài nầy là các Vạn. Vào đây rồi, khi đã ổn định thì họ lập đình để tiếp tục thờ cúng các vị thành hoàng của họ. Mỗi Vạn đều có thành hoàng riêng nên bắt buộc họ phải lập đình riêng. Đó là lý do tại sao có quá nhiều đình trong môt phạm vi nhỏ hẹp như thế. Cụ Rở đưa ra bằng chứng là ngay tại vùng Đakao nầy có một xóm gọi là Xóm Vạn Chài. Xóm nầy nằm sát bờ Rạch Thị Nghè, ngay phía sau khu vực trường Văn Hiến và rạp chớp bóng Văn Hoa ở đường Trần Quang Khải sau nầy, gần như đối diện với đình Nam Chơn, và cũng không cách đình Sơn Trà bao xa. Cho tới thập niên 50, lúc tôi còn nhỏ, xóm nầy vẫn còn mang tên là Xóm Vạn Chài. Lý luận và bằng chứng cụ Rở đưa ra khá vững, tôi nghĩ là bước kế tiếp cần thực hiện là nghiên cứu các thần sắc (nếu còn) thờ trong các ngôi đình nầy, chắc chắn ta sẽ tìm được gốc tích của những người đầu tiên đã lập ra các ngôi đình nầy. Trong thâm tâm tôi tin rằng thuyết của cụ Rở là đúng.

Sau các ngôi đình, các cơ sở tôn giáo quan trọng khác của khu Đakao là chùa Cô Hồn ở đường Trần Quang Khải, chùa Ngọc Hoàng ở đường Phạm Đăng Hưng và Đền thờ Đức Trần Hưng Đạo ở đường Hiền Vương. Trong ba cơ sở nầy, chùa Ngọc Hoàng là cổ nhứt. Ngay trong thập niên 50 lúc tôi còn nhỏ thì chùa nầy đã có được nửa thế kỷ rồi. Chùa Ngọc Hoàng có cơ sở khá lớn, cổng gạch, sân rộng và dài, lối đi lát gạch, bên trong sân có nhiều cây cối. Vào hết phần sân ngoài rồi là lan can bằng gạch rồi đến phần sân trong hoàn toàn lát gạch, có nhiều cây kiểng, và đặc biệt ở góc bên tay phải có một hồ nhỏ nuôi rùa và cua đinh, mặt hồ hoàn toàn phủ rong xanh, vách và thành hồ bằng đá cũng đầy rong rêu, trông rất cổ kính. Trước khi vào bên trong chùa, hai bên cửa có hai tượng Ông Thiện và Ông Ác to gần bằng người thật, đứng cầm gươm, màu sắc rực rỡ. Bên trong chùa lúc nào cũng âm u và khói nhang nghi ngút, thú thật tôi chỉ dám đứng ở ngoài cửa nhìn vào mà thôi, chưa bao giờ tôi dám bước vào bên trong. Tôi chỉ thích đứng chồm mình vào thành cái hồ ngoài sân để nhìn các chú rùa lâu lâu trồi lên mặt nước để thở. Chùa Cô Hồn, cách không xa đình Phú Hòa, tuy gọi là chùa nhưng xem có vẻ giống cái đình nhiều hơn, không biết cất từ năm nào, có cổng gạch và sân gạch, về sau dường như có cho thuê phần sân để làm garage sửa xe hơi. Chùa Cô Hồn thì tôi cũng có khá nhiều kỹ niệm. Đó là nơi hàng năm vào dịp Rằm Tháng Bảy bọn con nít tụi tôi kéo tới xem cúng cô hồn, xem tượng Ông Tiêu làm bằng hoa lá, với cái lưỡi le dài ra, đỏ lòm trông đễ sợ, và cũng để chờ tiết mục hấp dẫn nhứt sau khi chùa cúng xong: đó là màn nhào vô giựt bánh trái, giựt tiền trong chùa liệng ra sân (gọi là thí cô hồn). Bánh trái thì đủ loại, nào chuối, nào khoai, nào đậu phộng nấu, nào bánh cúng, bánh cấp, bánh in, bánh ít. Còn tiền thì chỉ là bạc cắc, một cắc, hai cắc mà thôi. Đền thờ Đức Thánh Trần là mới nhứt trong ba cơ sở tôn giáo nầy. Đền được cất lên sau năm 1954, bên ngoài đường Hiền Vương nhìn vào tưởng như chỉ là một căn phố với cổng sắt cao. Sau khi vào cổng rồi là một lối đi lát gạch, bề ngang chỉ rộng độ ba mét, dài độ hơn mười mét. Cuối lối đi nầy khách viếng thăm đền sẽ ngạc nhiên vô cùng khi đối diện với một sân gạch rất rộng nằm xéo qua phía bên tay phải, sân nầy hình chữ nhựt, mổi cạnh dài có đến trên hai mươi mét. Cuối sân đó là điện thờ, nền lát gạch bông luôn luôn sạch bóng và sơn son thếp vàng rực rỡ. Hàng năm đến ngày húy của Đức Thánh thì đồng bào đến lễ đông vô cùng, bên trong khói nhang nghi ngút và chiêng trống đánh vang rền.

Khu Đakao còn một cơ sở tôn giáo nữa, tuy nhỏ nhưng mang nhiều nét độc đáo. Đó là Miễu Nổi. Đây là tên của người địa phương đặt cho cơ sở tôn giáo nầy, tên chính thức của nó là gì thì tôi không biết vì chưa bao giờ nghe nói đến. Đặt tên như thế vì đây là một cái miễu cất trên một cái cù lao nhỏ trên rạch Thị Nghè (rạch Thị Nghè là tên gọi trên bản đồ, người địa phương thì gọi là sông Cầu Bông). Có thể đến Miễu Nổi bằng hai cách, hoặc theo một con hẻm nhỏ ở đường Trần Quang Khải, đi xuyên qua hết khu xóm Vạn Chài, ra tới tận bờ sông rồi dùng đò qua miễu, hoặc đi xuyên qua trại cưa Trần Pháp, ở dưới dốc Cầu Bông, về phía bên Bà Chiểu, độ hơn 100 mét, ra bờ sông rồi cũng dùng đò qua miễu. Miễu là nơi thờ một vị Thánh Mẫu, dân trong vùng thường chỉ gọi là Bà, nên cũng có khi người ta gọi cơ sở tôn giáo nầy là Miễu Bà. Dân chúng trong vùng tin là Bà rất linh thiêng, cầu xin gì cũng được, nên suốt năm lúc nào cũng có đông người đến cúng vái, và vì thế Miễu Nổi lúc nào cũng ở trong tình trạng được chăm sóc, sơn phết tươi tốt.

Về phần đạo Thiên Chúa, ngoài hai ngôi thánh đường lớn, tuy không xa khu Đakao, nhưng khó có thể gọi là thuộc khu Đakao, Nhà Thờ Đức Bà Saigon (về sau được Toà Thánh La Mã nâng cấp lên hàng Vương Cung Thánh Đường), và Nhà Thờ Tân Định, còn phải kể đến các cơ sở đào tạo tu sĩ nằm trong khu Đakao. Đó là Đại Chũng Viện Saigon và nhà Dòng Tu Kín, cả hai cơ sở nầy đều nằm trên đường Cường Để.

Ngoài những cơ sở tôn giáo thuần túy như vừa trình bày ở trên, khu Đakao còn có Đền thờ Quốc Tổ trong Thảo Cầm Viên (người Saigon thường gọi là Sở Thú). Sau khi vào cổng chính của Thảo Cầm Viên, nhìn sang phía tay phải ta thấy ngay đền thờ Quốc Tổ. Ngôi đền nầy có kiến trúc rất độc đáo, vuông vức, mỗi cạnh khoảng 10 mét, dựng trên một mô đất cao, với mái cong, lợp ngói âm dương rất đẹp. Mổi phía đều có bậc thềm đá dẫn lên đền, hai bên thềm có lan can hình rồng đúc xi măng và sơn phết rất đẹp. Ngay trước mặt chính của đền là sân lát gạch, ở giữa có một bia đá. Nhìn từ phía chính diện vào trong đền, bên tay phải, các đền chừng 5 mét có một tượng voi bằng đồng đen, theo bảng đề bên cạnh thì tượng voi nầy là do Vua Cao Miên tặng vào dịp khánh thành Sở Thú. Chung quanh đền, bốn phía đều có cửa bằng gỗ quý. Đền chỉ mở cửa cho khách viếng vào ngày Chúa Nhựt thôi. Bên trong đền là điện thờ sắp xếp như trong các ngôi đình, chia làm ba gian, với các giá dựng binh khí bằng đồng bóng loáng. Hàng năm cứ đến ngày Giổ Tổ Hùng Vương đều có tổ chức lễ rất long trọng tại đây.

 

Các Cơ Sở Văn Hóa Khác

Ngoài các cơ sở giáo dục và tôn giáo vừa kể trên, khu Đakao còn có nhiều cơ sở văn hóa quan trọng khác.

Trước hết, đáng kể nhứt là Thảo Cầm Viên Saigon, tức Sở Thú. Tọa lạc trên một vùng đất rộng hàng chục mẫu, mặt tiền là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, một cạnh là đường Hồng Thập Tự, và mặt sau chạy dọc theo rạch Thị Nghè, Sở Thú là một trong những khu giải trí quan trọng của dân chúng Saigon, nhứt là vào ngày Chúa Nhựt. Sở Thú thời Pháp thuộc gọi là Jardin Botanique (nghĩa là vườn bách thảo), sang thời Cộng Hòa đổi ra tên Việt, gọi là Thảo Cầm Viên, nhưng đối với người dân Saigon thì truớc sau vẫn gọi là Sở Thú. Theo ý kiến riêng của tôi thì cả ba tên gọi nầy, hai tên chính thức, một tên nôm na, đều không diễn tả được hết nội dung của khu vườn nầy. Tên Pháp thì hoàn toàn chỉ nói về cây cối là sai, vì trong vườn có nuôi rất nhiều loại thú khác nhau. Tên Việt chính thức cũng không hoàn toàn đúng vì chỉ nói đến cây cối và chim, bỏ ra ngoài các loài thú. Tên Việt nôm na thì chỉ nói tới thú, bỏ qua hết cây cối, bông hoa. Tuy nhiên phải công nhận một điều là tên Sở Thú có vẻ sát với thực tế nhứt, vì phần đông khách vào Sở Thú là để xem thú nhiều hơn là xem cây cối. Sau khi vào cổng chính, du khách sẽ thấy ngay trước mặt mình một con đường tráng nhựa rất rộng xe hơi có thể chạy được, chia làm hai đường, một đường để vào, một đường để ra, phần chính giữa còn khá rộng có những bồn hoa đủ màu. Ngay đầu con đường nầy, bên tay phải là Đền Thờ Quốc Tổ (đả kể ở trên), bên trái là Viện Bảo Tàng Saigon (sẽ nói đến sau). Con đường nầy chạy dài, thẳng tắp độ 200 mét thì hết, đụng vào con đường chạy dọc theo rạch Thị Nghè. Ngay tại ngã ba nầy là một sân khấu lộ thiên nhỏ, có tam cấp đi lên, hai bên viền lại bằng các giàn bông giấy đủ màu trắng, đỏ, và tím. Đây chính là nơi hòa nhạc công cộng vào các ngày lễ hay Chúa Nhựt để giúp vui cho du khách. Ở vào khoảng giữa con đường lớn nầy có một ngã tư. Con đường cắt ngang, nếu ta rẽ về bên tay phải, sẽ dẫn ta vào khu trung tâm của Sở Thú, nơi có chuồng khỉ, hầm gấu, chuồng chim, két, và, đặc biệt nhất, là một hồ sen rất lớn, ở giữa có nhà thủy tạ hình bát giác có cầu gỗ từ trong bờ đưa ra. Hồ sen nầy, từ thập niên 60 trở đi có nuôi nhiều cá chép Nhật Bản đủ màu rất đẹp. Rời khu vực hồ sen ta sẽ đến khu chuồng cọp, sư tử và dã nhân. Sau đó bọc vòng trở lại bờ sông thì có chuồng voi và nai. Từ bờ sông gần chuồng voi có một cây cầu lớn dẫn qua khu Thị Nghè. Chính trên cây cầu nầy đã xảy ra vụ tai nạn làm chết nhiều người trong thời gian Hội Chợ Thị Nghè trong thời Đệ Nhứt Cộng Hòa. Ngoài các loại thú, Thảo Cầm Viên cũng có trồng nhiều kỳ hoa dị thảo, và có cả một khu nhà kiếng cho các loại phong lan.

Đến Thảo Cầm Viên mà không vào viếng Viện Bảo Tàng sẽ là một điều đáng tiếc. Viện Bảo Tàng, như đã nói ở trên, nằm ngay bên phía tay trái khi bước vào cổng chính của Sở Thú. Thời Pháp thuộc Viện Bảo Tàng mang tên Pháp là Musée Blanchard de la Brosse. Trong thời Cộng Hòa, cố học giả Vương Hồng Sển đã làm Giám Đốc viện trong khoảng 10 năm. Tôi xin mạn phép mở một đấu ngoặc nhỏ ở đây để ghi lại đôi dòng kỷ niệm về vị thầy khả kính vừa khuất bóng. Năm thứ hai ở Đại Học Sư Phạm Saigon, niên khóa 1961-1962, anh chị em Ban Sử Địa chúng tôi được may mắn học môn sử Việt Nam với thầy Vương Hồng Sển. Ngoài việc dạy môn chính khóa nầy, thầy còn kể cho chúng tôi nghe những nghiên cứu của thầy về đồ sứ men lam Huế mà thầy là chuyên gia số một của thế giới. Tôi còn nhớ mãi hai câu thơ thầy đã ngâm cho chúng tôi nghe khi nói về chiếc dĩa Mai Hạc:

"Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, Hạc là người quen"

Tôi xin được đóng dấu ngoặc lại ở đây. Xin mời độc giả trở lại Viện Bảo Tàng. Viện Bảo Tàng là một tòa nhà lớn, dài, sơn trắng, xây trên một nền cao. Bên trong chia làm nhiều phòng, mỗi phòng dành riêng cho một giai đoạn lịch sử hay một nền văn minh, chủ yếu là các cổ vật của nước ta và các quốc gia trong vùng như Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp. Đáng chú ý nhứt có lẽ là phòng trưng bày các cổ vật của nền văn minh Óc Eo, đào được tại Long Xuyên trong thập niên 40, đặc biệt là hai đồng tiền cổ La Mã thời Hoàng Đế Marc Aurèle, chứng tỏ Vương Quốc Phù Nam xưa đã có những trao đổi hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp (qua các thương nhân Ả Rập?) với Đế Quốc La Mã.

Một cơ sở văn hóa quan trọng khác, trong đầu thập niên 60, là Viện Khảo Cổ, cũng nằm ngay trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, đối diện với Sở Thú (từ cuối thập niên 60 trở đi Viện Khảo Cổ mới dời về đường Gia Long, đối diện với Bộ Kinh Tế). Khi tôi học năm thứ nhứt tại Đại Học Sư Phạm Saigon, thầy dạy môn Phương Pháp Sử của chúng tôi là Giáo Sư Trương Bửu Lâm, lúc đó là Giám Đốc Viện Khảo Cổ. Trong năm học thầy Trương Bửu Lâm tổ chức cho anh chị em sinh viên chúng tôi vào viếng Viện để được nghe thuyết trình về công tác của Viện, và chính tại đây tôi đã được lần đầu tiên nhìn thấy tận mắt một chiếu chỉ của triều Lê Thánh Tôn, lồng kính treo trên tường trong phòng làm việc của thầy.

Ngoài các cơ sở văn hóa quan trọng vừa nêu trên, khu Đakao còn có khá nhiều rạp hát, cả cho bộ môn hát bội, cải lương và chiếu bóng. Về môn hát bội thì rạp hát chính là những ngôi đình mà tôi đã có kể qua ở phần trên. Về cải lương thì có rạp Thuận Thành ở đường Paul Bert (Trần Quang Khải, về sau bị phá đi để xây rạp chiếu bóng Văn Hoa) là nơi đóng quân của đoàn Phụng Hảo, và một rạp nữa trên cùng một đường mà tôi không còn nhớ tên và là nơi đóng quân của đoàn Bích Thuận. Về chiếu bóng thì có rạp ASAM và Casino Đakao cùng nằm trên đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng), và rạp Nam Tân trên đường Dr. Angier (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Sang thập niên 60 chỉ còn lại rạp Casino.

 

Lâm Vĩnh Thế
(Trích từ tài liệu của nhóm Nghiên cứu Ðồng Nai - Cửu Long, www.dongnaicuulong.org)

 


Cái Đình - 2010