Cái Đình
Bắn rụng mặt trời
Tiểu thuyết lịch sử
(Trích đoạn trong 'Bắn rụng mặt trời', trường thiên tiểu thuyết lịch sử
của Vũ Ngọc Đĩnh)
Trên vùng bờ bên phải (hữu ngạn) sông Argun, phụ lưu của dòng Amur (Hắc Long Giang), có một sắc dân lai Thổ và Mông Cổ sinh sống, cũng lại có những nơi khác thuần là sắc dân Thổ, hoặc thuần Mông Cổ. Trong các vùng núi Kentei, có sắc dân Mông Cổ gọi là người Boreigan, đọc theo âm Hán là Thổ Nhĩ Căn (Pou-eul-tche-kin), chính đại đế Gengis Khan (Thành Cát Tư Hãn) là người thuộc bộ tộc Mông Cổ này. Bộ tộc Thổ Nhĩ Căn chia ra làm hai giai cấp, mỗi giai cấp lại có nhiều bộ khác nhau, một hạng thuộc dòng cao quý hay là dòng chính thống thuần giống, một loại thuộc đẳng cấp dưới.
Các bộ tộc Mông Cổ đông lắm, sử chép: Đân số Mông Cổ thời ấy có gần ba triệu người, đa số là dân du mục. Bởi sống đời du mục nên nhà cửa của họ là những túp lều quây quần thành hình tròn, bằng da thú ghép lại, trên nóc lều có lỗ thông hơi, để dễ di chuyển, để tự vệ chống lại với thú dữ tấn công. Người Mông Cổ du mục ăn thực phẩm là sữa cừu, thịt cừu, hoặc các loài dã thú chim muông săn bắn được. Những người nghèo khổ ở đẳng cấp dưới còn ăn cả xác những thú vật chết thối từ lâu. Quần áo của họ cũng làm bằng da thú. Họ ít làm việc. Sử chép: ‘Từ đời nhà Đường (618-904), dân du mục Mông Cổ này đã sống rải rác ở khoảng thượng lưu sông Hắc Long Giang về đến phía Bắc Xa, Thần Hàn thuộc miền Bắc nước Trung Hoa. Cuộc sống của dân du mục Mông Cổ với cách sinh hoạt “hoang sơ” như vậy so với các dân tộc khác ở Á Châu thời đó, thì họ là giống dân kể như chậm tiến nhất. Người Mông Cổ sống du mục, cho nên phải sử dụng ngựa hoặc lạc đà làm phương tiện di chuyển, nhờ thế họ rất giỏi về phép cưỡi ngựa. Cuộc sống lang thang săn bắn dã thú dạy cho họ cách sử dụng cung tên thật tinh tường. Đời sống vật lộn với thiên nhiên, dã thú và chống trả các bộ lạc khác luôn rình rập chém giết nhau, giúp cho người Mông Cổ có được những phép chiến trận, vũ nghệ thật kỳ diệu, cao siêu.’
Các dân tộc Mông Cổ liên miên đánh nhau, giành ngôi “Đại Hãn” (vua trên các vua!). Gengis Khan, tên thật là Thiết Mộc Chân, Tedmudjin, tay hùng liệt thuộc dòng cao quý của giống Mông Cổ, ông mang quân tranh hùng với tất cả các bộ tộc khác, thắng được các bộ tộc ấy, thống nhất được xứ Mông Cổ, được tất cả các hãn bầu lên chức vị hắc hãn, hay đại hãn, hiệu gọi là Thành Cát Tư có nghĩa là Thái Dương Mặt Trời của tất cả đế quốc đại hãn bao la mênh mông như biển cả!
Sự nghiệp chinh phục nội xứ xong xuôi, Thành Cát Tư Hãn nhân đà thắng thế, uy lực ngất cao, ông nghĩ đến viêc mở những cuộc trường chinh đánh xuống nước láng giềng vĩ đại!...
Thống nhất được Mông Cổ, Thành Cát Tư Đại Hãn hội chúng hùng tướng hùng binh và các con cháu vốn cũng là những danh tướng. Trước ba quân tướng sĩ, Đai Hãn Thành Cát Tư hiểu dụ:
‘…Trèo lên đỉnh núi của rặng núi cao, hướng về cửa miệng của biển cả, đừng vì đường xa mà do dự, chỉ cần vượt tiến lên thì nhất định sẽ tới được. Tự lực tự cường thì có thể đánh bại được mọi người, ý chí kiên định thì có thể chiến thắng được vạn chúng! Từ chỗ mặt trời mọc cho đến chỗ mặt trời lặn, Trời Xanh an định cho ta được mạnh, ta phải chấp chưởng tất cả những ai đã làm nẩy sinh ra nước nhà! Nếu ta đã trở thành Hắc Hãn, mang sứ mạng cứu vạn bang cương kỷ của các nước, thì các con ta, các người hãy kiên thủ những truyền thống chính đáng nỗ lực về nước nhà. Phải nhớ kỹ ngoài cái bóng mình ra thì không còn ai là bạn, ngoài cái đùi thì không có dây da cương ngựa hữu dụng, các ngươi nhất định phải vì Mông Cổ đại đế quốc trường tồn vạn thế mà phấn đấu!...’
Lời hiểu dụ hùng tráng đầy tham vọng ghê gớm của Thành Cát Tư Đại Hãn làm cho ba quân tướng sĩ hừng hực lửa chiến đấu, nhất tề hô vang, ngợi tôn đại đế, tiếng hô rung trời chuyển đất, còi trận du mục thúc âm u rờn rợn, hàng muôn ngàn ngọc tên phóng lên trời che khuất cả trời nắng gắt để tỏ uy lực!
Trung Quốc là nơi quân Mông Cổ nhắm vào trước tiên. Trung Quốc hồi đó chia làm ba khu vực lớn thuộc quyền cai trị của ba vị vua:
– Hoa Bắc, do nhà Kim là dòng dõi Mãn Châu chiếm giữ, đặt kinh đô ở Bắc Kinh.
– Hoa Nam, thuôc lãnh thổ nhà Tống, kinh đô đặt ở Hàng Châu.
– Tây Hạ, nước này có lãnh thổ nằm về phía tây bắc Trung Quốc.
Cuộc trường chinh của quân Mông Cổ thu phục Trung Quốc cực kỳ vất vả. Đại quân Mông Cổ tung hoành không ngừng đánh đông dẹp bắc, vậy mà quân thiết kỵ Mông Cổ cũng phải mất đến hai năm trời ròng rã tiến công không ngừng mới vượt được bức Trường Thành Vạn Lý, tràn đến bao vây Bắc Kinh năm 1213. Trận chiến đánh thành Bắc Kinh mới thật là khốc liệt “trời sầu đất thảm”! Tướng sĩ nhà Kim dốc hết sức lực ra cự địch, cuộc cầm cự của quân nhà Kim kéo dài được thêm hai năm nữa thì Bắc Kinh thất thủ, quân Mông Cổ tràn vào thành, ấy là vào năm 1215.
Mông Cổ tức giận vì bị quân Kim chống cự dữ dội quá, bấy giờ họ ra tay rửa thù với những cuộc chém giết, đốt phá khủng khiếp. Thành Bắc Kinh ngút lửa, biển lửa ngùn ngụt đốt phá Bắc Kinh hơn một tháng trời mà vẫn chưa tắt. Sử ghi: Chín năm sau năm Bắc Kinh bị phóng hỏa, các du khách qua đây còn thấy đầy rẫy những dấu tích hoang tàn, xương khô của hàng chục vạn tử sĩ còn vương vãi khắp nơi!
Dứt xong nhà Kim, Thành Cát Tư Hãn nhân đà thắng lớn chia binh đánh sang phía Tây, trước hết nhằm vào Tân Cương và Ba Tư. Một đạo quân khác của Mông Cổ uy hiếp dữ dội nước Tây Hạ vào mùa thu năm 1226. Tây Hạ cũng chung số phận với nhà Kim, cuộc chống cự kéo dài đến cuối tháng tám năm sau thì Tây Hạ thua trận. Nước này bị sát nhập vào đế quốc Mông Cổ giữa lúc lửa chiến tranh còn tiếp tục tàn phá khắp nơi, “máu chảy đua với dòng sông mạnh, xương chất tranh cao với Thái Sơn!”.
Ở phía đông, chúa Mông Cổ cử hùng binh đánh nước Cao Ly liên tiếp trong ba năm liền (1217-1219), phá tan thành Cao Ly, cuối cùng vua nước Cao Ly đành chịu đầu hàng, nhận làm một nước chư hầu của Mông Cổ.
Ở mặt Tây phương, cuộc trường chinh của hùng quân Mông Cổ kéo dài đến năm năm. Cuộc chiến đấu dai dẳng khốc liệt làm cho tướng sĩ Mông Cổ vốn đã hung dữ lại càng thêm hung dữ, bởi thế mỗi khi chiếm được nơi nào thì quân Mông Cổ làm cỏ nơi ấy, phá hết, đốt hết, giết hết, thực hiện cho đúng với phương châm của quân viễn chinh Mông Cổ lúc ấy là “nơi nào vó ngựa Mông Cổ đã đi qua, thì nơi ấy cỏ cây cũng phải chết hết!”. Đại quân Mông Cổ lần lượt đánh Uzbekistan, phá tan tiểu vương quốc Khorassan, hạ một loạt các thành lớn danh tiếng, trong đó có thành Samarkand rồi tiến vào Ba Tư. Lúc ấy, Hồi Quốc đang đang hết sức thịnh vượng. Là một đế quốc được kể là lớn gồm các nước Ba Tư, Tiểu Á Tế Á và vùng cận đông, chiều rộng của đế quốc này chạy dài từ nước Ấn Độ đến tận thành Bagdad (thành Bát Đa). Đế quốc của Mohammed tan ra tro bụi cùng với đạo quân bốn chục vạn chết sạch! Kể từ thuở ấy, đế quốc Hồi bị xóa tên trên bản đồ thế giới.
Đánh chiếm xong Ba Tư, Mông Cổ thúc quân ào ạt chuyển một cánh quân đánh vào vùng Lưỡng Hà, chiếm thành Bagdad (ngày nay là thủ đô nước Irak). một cánh quân tiến sang Syrie, chiếm Alep và Damas của Ai Cập hồi đó; một mặt Mông Cổ thúc binh đánh vùng ngoại Capcase (vùng này ngày nay gọi là Azerbaijan, Georgie, Arménie, chinh phục ngọn núi Capcase để tiến vào Krim, tràn quân xuống phía nam nước Nga. Nước Nga thuở ấy gồm nhiều nước riêng nhỏ, hợp nhau lập được một đạo quân đông tám mươi ngàn người ra sức chống cự với quân Mông Cổ. Nhưng tướng Mông Cổ là Subotai tiêu diệt đạo quân này của Nga thật dễ dàng, rồi thừa thắng tràn đến tận vùng trung lưu sông Volga! Mông Cổ tiến sâu vào vùng trung Nga với sức mạnh một trăm năm mươi ngàn quân thiết ky, thiêu rụi Vladimir, Moscou, Tver, rồi đổ xuống Ukraine, hỏa thiêu Kiev, hoàn tất cuộc chinh phục nước Nga. Kể từ đây, nước Nga chịu ách đô hộ của quân Mông Cổ dài đến hơn hai thế kỷ (1240-1481).
Sau nước Nga, Mông Cổ lại thúc quân chia ra các ngả đánh Ba Lan, Phổ (tức Đông Đức ngày nay), thúc đạo chinh binh tiến đánh Hunggari. Tại Ba Lan, quân Mông Cổ đụng phải sức kháng cự thần kinh quỷ khiếp của đạo kỵ binh danh tiếng nhất thời ấy là quân Teuton. Kỵ binh Teuton đông ba mươi lăm nghìn người. Các trận giao tranh được các sử gia mô tả là “mờ trời chuyển đất”, thiết kỵ Mông Cổ chỉ đông hơn kỵ binh Teuton năm nghìn đầu ngựa, đã tiêu diệt đạo binh hiệp sĩ Teuton chẳng còn một mạng sống!
Tại Hunggari hồi ấy, giáo chủ và các nhà quý tộc phong kiến xung đột với nhau vừa tạm yên, thì quân Mông Cổ như một cơn giông vĩ đại ào tới, bao vây công phá thành Budapest, nhà vua là Béla ngự giá thân chinh cầm quân cự địch, vua thua trận phải bỏ thành chạy, Mông Cổ truy nã ráo riết, đuổi nhà vua đến Pest trên bờ biển Adriatique thuộc Nam Tư, tại đây vua đành chịu chết, ấy là vào năm 1241. Quân Mông Cổ hoành hành giết sạch năm trăm ngàn quân dân Hunggari không để sót một mạng nào, rồi bỏ đi!
Bấy giờ ở Ấu Châu còn lại các nước Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, các nước này nghe tin thì kinh hoàng mất vía, gọi quân Mông Cổ là “thiên tai đến từ Đông phương!”. Các nước này họp bàn với nhau, chẳng nước nào nghĩ đến việc xuất quân gìn giữ biên cương cự với đại địch, mà vội vàng cầu xin Đúc Giáo Hoàng Innocent IV làm cách nào để cản được vó ngựa của quân Mông Cổ.
Giáo Hoàng liền lập một sứ bộ đi cầu hòa, ngài cử giáo sĩ Carpini từ Âu châu vượt đường xa cực kỳ gian khổ đến tận đế đô Mông Cổ là Hòa Lâm (Quarakorum) xin với chúa Mông Cổ đừng tiến quân thêm nữa sang phía Tây.
Mông Cổ dừng quân, có thể chẳng phải chỉ vì lời cầu hòa này, mà một là vì lẽ quân sự, Mông Cổ muốn tạm nghỉ sau khi đã chiếm được cả một vùng đất bao la đến tận nước Áo, ngấp nghé nơi cửa ngỏ thành Vienne, sức quân cũng đã mỏi. Mông Cổ cần giữ vững những nơi đã chiếm được, sau sẽ lại tiến binh cũng chưa muộn! Lẽ nữa xem ra có phần quan trọng, ấy là giữa lúc đà tiến quân đang dữ dội, thì chúa Mông Cổ là Thành Cát Tư Đai Hãn chết, ấy là vào năm 1227. Theo tục lệ Mông Cổ, thì khi Hãn chết, tất cả các tướng ở các nơi phải đều về đế đô hội quân nghe lệnh, cử người lên thay Hãn. Quyền lực cùng đất đai của Thành Cát Tư Hãn được đem chia cho bốn người thừa kế là:
– Con trưởng là Thuật Xích (Juci), người con này chết trước Thành Cát Tư Hãn,
nhưng con của Thuật Xích là Hiệu Đô, còn gọi là Bả Đồ (Batu) được kế quyền cha,
nhận vùng đất phía Nam và Đông nước Nga.
– Người con thứ hai của Thành Cát Tư Hãn là Tế Hợp Thai, còn gọi là Tế Hãn Mật
(Cagata) nhận vùng Tukestan Đông.
– Người con thứ ba là Cao Hoạt Thai hay A Vật Thai (Ogodai hay Ogadai) nhận
phần lãnh thổ cũ của xứ Naiman (Tarbagatai, Emil và Kobdo).
– Cuối cùng, theo như tục lệ, người con út của Thành Cát Tư Hãn là Tha Lôi được
bầu lên làm “Đại Hãn” hay là Kagan, có nghĩa là “vị đại vưong trên tất cả các
vị đại vương”, đại vương nhận phần đất chính là phần lãnh thổ Mông Cổ Đông,
lấy hiệu là Thái Tông.
Việc phân chia này không làm cho sức mạnh của đế quốc Mông Cổ bị phân tán, ngược lại vẫn giữ nguyên được dàn xếp êm đẹp đúng với ý chỉ của tiên đế, không hề có sự tranh giành hục hặc nào giữa đám các con của tiên hãn hoặc giữa các tướng với nhau.
Nhưng Thái Tôn cũng chỉ ở ngôi được được có ba năm rồi cũng qua đời, Định Tông kế nghiệp cũng lại yểu vong, ngôi vua từ đây truyền sang chi khác. Em con nhà chú là Mông Kha (Mongka) được tôn lập, thức là vua Hiến Tông.
Vua Hiến Tông phái hai người em, một là vương đệ Hạ Lô (Houlagen) đi kinh lý việc Ba Tư, vương đệ nữa là Hốt Tất Liệt (Koubilai) thì mang quân đánh nhà Nam Tống ở phía Đông. Trong khi quân Mông Cổ đang tận lực giao chiến với quân Nam Tống, thì vua Hiến Tông lại qua đời. Đanh tướng hoàng đệ Hốt Tất Liệt về đế đô dàn xếp mọi việc, rồi lên ngôi vua xưng là Thế Tổ, lấy quốc hiệu là Nguyên.
Chiến trận của quân Mông Cổ chinh phục nhà Tống khởi từ năm 1236, mãi đến năm 1279 mới dứt. Lúc ấy quân Mông Cổ chia làm ba đường để tiến quân; thứ nhất từ Tứ Xuyên thúc xuống Trường giang, nhằm tiến tới Ngạc Châu tức Vũ Hán ngày nay; cánh quân thứ hai đi ngã Hồ Bắc tràn xuống Trường giang. Nguyên chúa tính toán, sai một cánh quân thứ ba nữa làm thế hợp chiến cho cả hai đạo quân kia, cánh quân này tiến xuống Tây Tạng, đánh nước Đại Lý tức Vân Nam ngày nay, rồi từ Đại Lý đánh vào phía Tây nhà Tống. Đại Lý mất vào tay quân Mông Cổ năm 1256, tướng cầm quân ở mặt trận này là Ngột Lương Hợp Thai (Uryanhadai, âm tiếng Hán đọc là Wou Leang Hot’ai) vâng lệnh Nguyên chúa mang quân từ Đại Lý tiến đánh xuống nước Đại Việt ta vào năm 1258 và đấy là cuộc tiến quân lần thứ nhất của Nguyên Mông vào nước ta…
Nguyên chúa dự định: sau khi lấy xong Đại Việt, chẳng khác nào như mở được cho dòng sông lớn có đường chảy, sẽ lấy nốt Chiêm Thành, thu phục Bắc Mê Nam và Nam Mê Nam (tức là nước Xiêm La hay Thái Lan), rồi chinh phục Miến Điện, Java sau đấy thì đổ quân vào phía Đông Nam và Tây Nam Ấn Độ, dự định hai mặt từ Afghanistan và từ Đông Nam châu Á tiến quân diệt Ấn Độ, hoàn toan làm chủ thế giới…
Nhìn lại chặng đường trường chinh (chỉ kể hết sức vắn tắt, lướt qua) của một dân tộc có đời sống rất cực khổ và vất vả sống trong một vùng đất nước có thứ thời tiết cực kỳ khắc nghiệt, khi nóng thì nóng đến thiêu đốt cả từng mảng bao la đồng cỏ, cạn hết các nguồn nước, khi lạnh thì lạnh đến tận xương tủy, người và vật chịu không nổi, cỏ cây cũng chết với độ lạnh đến âm 45 độ. Ai là người lại không rùng mình khiếp sợ khi nghe đến tên Mông Cổ.
Đế quốc Mông Cổ làm chủ được bốn mươi nước, chạy từ Á Châu sang đến Âu châu. Trong lịch sử loài người, quả thật chưa hề có đế quốc nào lại vĩ đại đến như thế!
Một đế quốc như vậy mà ba lần mang phủ dụ vĩ đại của Thánh Võ Thành Cát Tư Đại Hãn, thúc quân xuống đánh nước Đại Việt, ba lần hùng binh Mông Cổ đại bại. Giấc mộng thôn tính nốt các nước nhỏ ở phía Nam châu Á để lấy đường vòng sang phía Tây, kẹp nát đế quốc Ấn Độ, toàn thâu thế giới bị khựng lại rồi tan mất! Vì sao, sức mạnh nào đã đưa nước Đại Việt ta, một lãnh thổ nhỏ bé, dân không đông, quân quá ít ỏi, thế mà đã oai hùng làm nên lịch sử ấy? Ai là giống nòi Đại Việt đều mong có hồi hiểu biết.
Không ngại sức kém tài hèn, với lòng tôn quý tổ tiên, những người đã đem đại công lao làm rạng danh lịch sử, tôi cố gắng sưu tầm và viết lại để thành kính dâng lên các ngài và thân ái trao về cho lớp hậu sinh của các ngài thiên tiểu thuyết đơn sơ “Bắn rụng mặt trời” này.
Đôi lời về tên sách “Bắn rụng mặt trời”
Trong sách “Trăng là cung, sao là đạn” của tác giả Trúc Chi sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu, ghi “Chuyện Văn Học Cho Tuổi Trẻ” do nhà xuất bản trẻ ấn hành năm 1988, gồm nhiều chuyện, trang 36 chuyện “Trăng là cung, sao là đạn” kể rằng (nguyên văn):
“Mạc Đĩnh Chi sang sứ triều Nguyên, lúc vào bệ kiến vua Nguyên muốn thử tài văn chương của Trạng và cũng muốn dò khí tiết bề tôi của một nước chư hầu bằng một câu đối. Vua Nguyên đọc:
“Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố”.
Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, giữa ban ngày đốt cháy vầng trăng.
Mạc Đĩnh Chi biết vua Nguyên kiêu hãnh, tự xem mình là mặt trời và coi Việt Nam như mặt trăng, ban ngày phải bị mặt trời thôn tính. Ông bèn ứng khẩu đối ngay:
“Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô”
Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, buổi hoàng hôn bắn rụng mặt trời.
Câu ra đã giỏi mà câu đối lại tài hơn. Vua Nguyên nghe đối biết là mình bị trả miếng rất đau, nhưng củng hết sức kính phục Mạc Đĩnh Chi, bèn thưởng cho Trạng Việt Nam rượu ngon và nhiều vàng bạc”.
Câu chuyện trên đây của tác giả Trúc Chi được chú thích là theo Việt Điện Kỳ Văn.
Còn trong sách Lịch Văn Hóa Tổng Hợp, 1987-1990, của Bộ Văn Hóa, nhà xuất bản Ngoại Văn, Hà Nội 1987, trong mục Văn Học, trang 88, đoạn tiểu mục đề tài ghi “Ngô Kính Thần Bắn Rụng Mặt Trời” viết về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc (nguyên văn):
“…Trong khoảng 22 thế kỷ từ thế kỷ thứ 3 (trước C.N.) đến 1979, các thế lực cầm quyền ở Trung Quốc đã 11 lần xâm lược nước ta…”, rồi sang đoạn 4 của bài này viết tiếp: …Gần đây, chúng tôi tìm thêm được một trang sử ngoại giao bằng đá do Vũ Đăng Long, tiến sĩ khoa Bính Thân (đời Lê Thịnh Đức thứ tư 1656) viết về chuyến đi sứ của Ngô Kính Thần, hoàng giáp khoa Quý Sử đời Lê Hồng Đức thứ 24 (1493).
Bài văn bia viết trên trụ đá khổ 0,80 x 0,10m, riền bia không trang trí. Bản rập hiện có của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm mang số đăng ký 6605, 6606, 6607).
Bài văn bia có đoạn viết, dịch nghĩa: “Khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497),
người thôn Triều, xã Xuân Hy, huyện Kim Hoa, phủ Hà Bắc (sau đổi là xã Xuân
Phương, huyện Kim Anh mới sát nhập vào Hà Nội) là hoàng giáp Ngô Kính Thần phụng
mệnh đi xứ phương Bắc.
Thiên triều ra câu đối là:
“Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố”
(Mặt trời là lửa. mây là khói
ban ngày đốt cháy vầng trăng).
Ông đối rằng :
“Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô”
(Mặt trăng là cung sao là đạn
chiều tối bắn rơi mặt trời).
Trong ghi chú của tài liệu này có viết: Trong thư tịch cổ có hơn 10 tác phẩm nói câu đối này là của Mạc Đĩnh Chi, nhưng xin lưu ý: các bản viết này đều ra đời sau bia trên một trăm năm.
Như vậy, ở đây tác giả xin lời tổ tiên lấy làm tựa cho tác phẩm “Bắn Rụng Mặt Trời” là mượn tích sứ giả của nước Nam đi sứ nhà Nguyên, nên trình bày hai tài liệu này để dộc giả được rõ.
Vũ Ngọc Đĩnh