Ðào Quốc Bảo
Cây Gạo Ven Sông
Sau cơn bão tuyết kéo dài tưởng chừng như không bao giờ dứt, ngoài trời rực sáng, một thứ ánh sáng trong vắt như pha-lê. Cảnh vật tuy bị chìm sâu dưới lớp tuyết dầy, nhưng ngược lại, người ta cảm thấy trong vườn, ngoài sân và ngay cả trên mặt lộ hình như được nâng cao lên. Tuyết! Chỗ nào cũng tuyết! Tấm áo choàng khổng lồ với mầu trắng tinh khôi đã làm bối cảnh cho những sinh hoạt của người và vật nổi bật.
Tổn thất đầu tiên được Hân ghi nhận là bức rào thưa ngăn vườn nhà chàng với vườn nhà hàng xóm phía bên phải đã bị trận bão vặn ngả nghiêng, gần sập, và rất có thể, vào một lúc nào đó, rất gần và rất bất ngờ, đám hoa thảo thu hẹp, bé tí teo trong vườn của Hân, nhất là khóm hồng nhung duy nhất còn sót lại giữa băng giá. Khóm hồng này là một loài hoa còn chút thủy chung đối với chủ, tuy lá cành trơ trụi nhưng cũng còn đôi ba chùm bụ bẫm vừa nụ vừa hoa mầu hồng tươi, nổi bật trên nền tuyết trắng. Khoác vội áo pa-kha, xỏ đôi ủng to kềnh, với đôi bao tay trên lò sưởi, Hân choãi chân, một tay vặn núm cửa phòng khách, ghé vai, dùng sức đẩy từ từ cánh cửa bị tuyết phủ dầy, rồi chàng lách mình ra ngoài vườn và lội ngay sang chỗ hàng rào đổ, gần khóm hồng bụ bẫm. Hân đã đặt hai tên cho nó, lúc thì gọi nó là ‘Khóm Hải Đường’, lúc khác lại kêu nó là ‘Chùm Hoa Gạo’. Hẳn là phải có nguyên nhân gì đây!
Đây là một giống hồng ‘đại đóa’ tuyển chọn trong vườn ươm và được Hân nâng niu chăm bón từ hơn chục năm nay: Thân cây tía, mập, khỏe, hoa to, cánh dầy mầu đỏ pha hồng, khi nụ hoa chúm chím hàm tiếu, hơi loe Hân thấy nó giống hệt như hoa Hải Đường, và đến khi nở xòe to, ngắm nó, chàng lại hình dung ra bông hoa Gạo năm cánh. Những ngày đông giá như hôm nay, tuy cây cành trơ trụi, hoa vẫn thủy chung gượng gạo hương sắc trong vườn như để làm vui lòng chủ, khiến cho Hân trạnh lòng nhớ đến những chùm hải đường e ấp giữa đám lá xanh đen trên bàn thờ nghi ngút khói hương của những mùa Xuân đoàn tụ, những cái Tết thanh bình; và hoa cũng làm cho chủ mường tượng đến cây gạo ở phủ Quốc Oai, Hân như sống lại những ngày tháng tản cư ở hậu phương, những mùa Xuân ly loạn đầy bất hạnh làm cho chàng bùi ngùi trong dạ.
Hối hả lục lạo khắp vườn, cuối cùng thì Hân cũng tìm được hai cây cọc gẫy nằm sâu dưới tuyết, chàng đến nâng tấm rào đổ và lấy cọc chống lên, tạm bợ, nhưng thấy cũng bảo toàn được ‘cây gạo’ hay còn gọi là ‘cây hải đường’ của Hân.
Ở nước ta, tứ thời tiết nạp, có nghĩa là quanh năm suốt tháng đều có những ngày lễ tết. Nói về hoa thảo thì cũng có những loài hoa khác nhau trong suốt bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông mà tiêu biểu là Mai Lan Cúc Trúc thể hiện trên bốn bức tranh tứ bình, thôi thì mùa nào hoa nấy, đua nhau phô sắc khoe hương. Vốn sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, Hân còn nhớ được là cứ mỗi độ Xuân về, người ta thường chơi cành đào, chơi cúc đại đóa, tỉa thủy tiên, trưng hoa hải đường trong lọ độc bình trên bàn thờ tổ tiên v.v... Ở miền quê, trên đê, đầu làng cuối xóm, hoa xoan hoa gạo nở tưng bừng. Tại những nơi thanh nhã, u trầm lại thường có những giò địa lan tha thướt e lệ khoe hương. Mùa Hạ, trong đầm sen nở thơm ngát mỹ miều, ngoài vườn hoa lựu phô sắc đỏ rực, có những con đường phượng vĩ đơm hoa... Khi cúc nở rộ là dấu hiệu của mùa Thu. Lập Đông, dường như chỉ còn lại tùng, trúc và chút ít hơi hướng của phương Tây, đó là cây hoa trạng nguyên, biểu tượng của mùa Giáng Sinh.
Từ ngày gây được vườn hồng, như một thông lệ, hàng năm cứ vào cuối Thu, tất cả những khóm hồng trong vườn đều được Tùng cắt tỉa cành, chỉ để lại 60 phân tính từ mặt đất, xịt thuốc trừ sâu, làm cỏ, vô phân gốc, và chờ đợi mùa Xuân tới để lại được ngắm hồng. Nhưng từ mấy năm nay, bụi hồng ‘lưỡng danh’ duy nhất còn lại trong vườn hôm nay là không bị tỉa nhánh cắt cành như những khóm hồng khác, chàng cứ để cho nó vươn cao tự nhiên, bởi vì đối với Hân, nó vừa là hoa gạo lại vừa là hoa hải đường cơ! Những đóa hồng đã tàng trữ kỷ niệm cho Hân.
Hải đường thuộc họ Trà (Theaceae) là loài cây thân mộc cho hoa cánh dầy mầu đỏ hồng, khum khum ôm lấy chùm nhụy vàng đậm, nó có tên khoa học là Thea Amplexicaulis Pitard, được trồng nhiều ở bên Tầu và miền Bắc nước ta. Kỹ thuật trồng thường áp dụng phương pháp triết cành (greffage), người ta chọn những cành bánh tẻ để ghép cho cây khỏe mạnh cứng cáp. Cây có thân mộc, vỏ nâu xẫm, lá hình ovale mầu xanh đậm, dầy và láng, mép lá có răng cưa, cuống ngắn. Cụm hoa có cuống dài phát ra gần ngọn từ 1 đến 3 hoa, nở theo dạng hình trứng, hơi loe, mầu đỏ thắm pha hồng, chùm nhụy ngắn mầu vàng làm cho hoa thêm rực rỡ. Hoa có hương thơm nhè nhẹ. Hải đường ra hoa vào mùa Xuân, có khi kéo dài cho đến mùa Hạ. Cũng có tài liệu chép: Hoa hải đường giống như hoa trà nhưng hoa trà mầu trắng, không thơm. Hoa hải đường có hương thơm, có thể là mầu vàng hay đỏ nhạt, cành mềm dáng như xử nữ. Có nhiều người đã lầm lẫn giữa hoa hải đường với hoa trà mi, trà hoa nữ, sơn trà, camellia. Tên gọi loài hoa này người Tầu gọi là Hải Đường, người Anh gọi là Chinese Flowering Crabapple, người Pháp gọi là Pommier Sauvage và tên khoa học lại gọi là Malus Spectabilis thuộc họ Hoa Hường (Rosaceae).
Hoa hải đường có một phong thái rất đặc biệt: Cây muốn nép mình trong muôn vẻ cỏ cây khác, mà rồi vẫn cứ nổi bật. Hoa luôn luôn ẩn mình đi (vì vốn ít hoa) trong đám lá xanh ngắt rậm rì (nhiều lá) nhưng lại càng rực rỡ (vì mầu sắc tương phản của hoa và lá). Hải đường kín đáo mà chói chang, âm thầm mà đậm đà. Hải đường là loài hoa cao sang mà xưa kia chỉ được trồng ở cung đình, chùa chiền, những nơi quyền quí hoặc những nơi có cảnh vườn u trầm trang nhã của một nhà nho hay một ẩn sĩ. Người dân chỉ biết hoa hải đường qua thơ văn mà thôi:
Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.
(Cung Oán Ngâm Khúc)
Hải đường lả ngọn đông lân
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà
(Kim Vân Kiều)
Bên Trung Hoa, thơ văn ca tụng hoặc liên quan đến hoa hải đường thì nhiều vô kể. Vào đời nhà Tống, Tô Đông Pha đã có bài thơ ‘Hải Đường’ để đời:
Đông phong niểu niểu phiếm sùng quang
Hương vụ không mông nguyệt chuyển lang
Chỉ khủng dạ thâm hoa thụy khứ
Cố thiên cao chúc chiếu hồng trang.
Dịch là:
Phe phẩy mùa Xuân ngọn gió đông
Bên thềm hương ngát ánh trăng lồng
Canh khuya những sợ rồi hoa ngủ
Treo ngọn đèn cao ngắm vẻ hồng.
Hân như bị mê hoặc bởi loài hải đường, có thể nói là từ thuở thiếu thời, cái tuổi mới cắp sách đến trường, chàng đã mang trong tâm hồn non nớt bé bỏng hình bóng của những đóa hoa hải đường.
Những mùa Xuân đất Bắc của ngày tháng xa xưa là những mùa Xuân của thanh bình, của đoàn tụ. Ngoài cành đào, thủy tiên, hoa cúc ra, mẹ Hân còn trưng cặp độc bình cắm hoa hải đường trên bàn thờ tổ tiên. Trong đám lá xanh đen ẩn hiện một cách khiêm cung một hai chùm đơn lẻ vừa hoa vừa nụ thắm hồng, không che dấu được sự tương phản của chùm nhụy vàng óng ả giữa những cánh hoa tươi thắm ken trong đám lá xanh đậm mầu. Hải đường không cho hương thơm rõ rệt: Ở những ngày tháng đó, Hân không cần biết. Hải đường có nét đẹp khiêm cung: Đối với Hân cũng không thành vấn đề. Cho đến những ngày buồn thảm đen tối nhất là ngày từ bỏ miền Bắc di cư vào Nam và ngày phải rời xa quê hương đi tìm Đất Hứa, nào còn tìm đâu ra bóng dáng hải đường, chàng thấy như thiếu vắng một cái gì thật gần gũi, thật thân thương và thật cần thiết. Hoa hải đường gợi nhớ! Hải đường làm cho Hân nhớ đến kỷ niệm, nhớ đến gia đình với đầy đủ người thân, từ anh chị đến các em quây quần bên ông bà cha mẹ, bên nồi bánh chưng, bên bàn thờ nghi ngút khói hương với hải đường khiêm cung e ấp dáng Xuân. Ôi, ngày Xuân ấm áp làm sao!
Nghĩ đến cây gạo, Hân thầm nghĩ: Cây gạo là một cây cổ thụ cho hoa đẹp vào mùa Xuân, cho quả sợi có thể tạm thay cho bông gòn vào cuối Hạ sang Thu. Vậy mà không biết tại sao người Việt ta gọi nó là cây gạo? Nó có liên quan gì đến thóc, đến gạo đâu?
Để tìm hiểu, Hân đã lần mò tra cứu trong từ điển và một số ít tài liệu sách báo bằng ngoại văn về hoa thảo, thực vật. Qua đó, chàng cũng chỉ ghi nhận được rằng cây gạo thuộc họ bông gòn (Malvacées hay Bombacaceae), được gây trồng ở những nước nhiệt đới, có những giống và tên khác nhau, xuất xứ cũng khác nhau: Kapokier, cây có thân mộc thuộc vùng Châu Á, họ Malvacées, cho bông gòn (Le kapok là bông gòn, từ tiếng Indonésia). Cotonnier, cây thân thảo hay thân mộc nhỏ, họ Malvacées, có nguồn gốc từ Ấn Độ, được gây trồng ở những xứ nhiệt đới để lấy bông. Fromager, cây thân mộc lớn, cũng họ Malvacées, nguồn gốc Phi Châu, gỗ trắng mềm, quả cho bông gòn. Silk Cotton Tree (tiếng Anh), Fromager, Arbre à Soie, Cotonnier Mapou (tiếng Pháp) đều có nghĩa là Cây Gạo, thuộc họ bông gòn (Bombacaceae), nguồn gốc từ Sri Lanca, Ấn Độ, được trồng ở các nước nhiệt đới vùng Á Châu. Cây dễ trồng, phát triển nhanh, cho bóng mát, hoa đẹp và sợi v.v. và v.v...
Vậy cây gạo xứ ta thuộc họ nào và chi nào?
Bởi vậy Hân vẫn chưa hài lòng, chàng cặm cụi tra cứu thêm qua tài liệu Hán Việt.
Cây gạo là loài cây thân mộc, chịu khí hậu nhiệt đới. Thân cây cao và thẳng, lá rụng vào mùa Đông, mùa Xuân cho hoa đỏ với 5 cánh xòe ra như hoa lys (huệ tây) hay loa kèn, hoa nở trước khi lộc non nẩy mầm. Quả nhỏ chứa sợi tương tự như sợi bông. Thân cây có gai to như để tự vệ chống lại sự phá hoại của động vật. Bề ngoài thì thân cây có vẻ là loại gỗ tốt nhưng thực chất gỗ cây gạo mềm không dùng được vào việc xây dựng và đóng đồ gỗ.
Một tài liệu khác ghi chép: Cây gạo có nguồn gốc từ Ấn Độ được trồng tại các nước như Mã Lai, Anh-đô-nê-si-a, miền Nam Trung Hoa, Hồng Kông, Đài Loan và Việt Nam. Theo ghi chép của lịch sử Trung hoa thì vua Nam Việt là Triệu Đà đã cống một cây gạo cho vua nhà Hán vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Sợi lấy từ quả gạo được dùng thay thế bông gòn, hoa gạo được chế biến thành một vài loại trà thuốc và những bài thuốc trị liệu rất có công hiệu. Tại Quảng Đông, cây gạo được gọi là mộc miên (cây hoa thân gỗ) hay hồng miên (cây hoa đỏ) hay còn được gọi là Anh hùng thụ (cây anh hùng, do có thân cao và thẳng như tùng, trúc). Quảng Châu (Trung Hoa) và Cao Hùng (Đài Loan) đã lấy hoa gạo làm biểu tượng.
Sách Thiền Uyển Tập Anh viết vào khoảng cuối thế kỷ XIII là một trong số ít sách cổ còn lưu truyền, có chép truyện Trưởng Lão La Quý An như sau: “Trước khi thị tịch, nhà sư gọi đệ tử là Thiền Ông lại mà dạy rằng: ‘Trước đây Cao Biền cho đắp thành dọc sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả, bèn đào sông Điểm Giang và đầm Phu Trạch và điểm long mạch 19 nơi. Ta đã chỉ cho Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta trồng một cây gạo tại chùa Minh Châu để trấn chỗ đất bị cắt long mạch. Có như thế, đời sau tất sẽ có đế vương vun trồng chính pháp của ta. Sau khi ta mất, ngươi nên đắp đất rồi dựng nhiều bảo tháp và dùng pháp thuật mà yểm tang không để cho người ngoài biết”. Nói đoạn, nhà sư viên tịch.
Lại nói năm Bính Thân niên hiệu Thanh Thái thứ ba (936) đời nhà Đường, khi trồng cây gạo, nhà sư có đọc bài kệ như sau:
Đại sơn long đầu khởi
Thập bát tử định thành
Miên thụ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiến nhật xuất thanh.
Các nhà nghiên cứu sử học xưa và nay đều xem bài kệ này là một bài sấm báo trước sự ra đời của nhà Lý và có ý coi đại sơn và chu minh là danh từ chung (câu 1+2), coi câu 5 là các tháng Thỏ (Mão), tháng Gà (Dậu) và tháng Chuột (Tý). Trong Thơ Văn Lý Trần tập I, bài kệ trên được dịch rằng:
Đầu rồng nổi lên ở núi lớn
Đuôi rồng giấu sự thịnh vượng
Họ Lý ắt thành sự nghiệp
Cây gạo hiện hình rồng
Trong tháng Thỏ, tháng Gà, tháng Chuột
Chắc chắn sẽ thấy mặt trời mọc lên trong trẻo.
Dịch như trên thì chưa rõ ẩn ý của tác giả, không gian còn mông lung và thời gian cũng còn mơ hồ. Nếu nghiên cứu kỹ thì sẽ thấy tác giả muốn báo trước một cách chính xác rằng triều đại nhà Lý ắt sẽ ra đời vào thời điểm này.
Nghiên cứu sử cũ, trong đó có ghi rất rõ cả nghìn năm trước, dân tộc Việt Nam đã coi cây gạo là cây thiêng liêng, cây vũ trụ, là thiên sứ mang thông điệp của trời đất báo điềm lành cho hậu thế: Đầu thế kỷ X, Cao Biền cắt yểm long mach nước ta, năm 936, thiền sư La Quý An đã trồng cây gạo ở chùa Minh Châu thuộc đất Cổ Phát, còn gọi là Diên Uẩn để trấn. Trong bài kệ có nói rõ là khi nào cây gạo có hình rồng leo thì đến ngày Mão, thángTý, năm Dậu sẽ có vua ra. Đầu thế kỷ XI quả nhiên cây gạo chùa Minh Châu bị xét đánh để vết lại như hình rồng y như trong bài sấm. Sau đó, ngày mồng 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu (1009), Lý Công Uẩn (ông họ Lý, người làng Diên Uẩn) lên ngôi hoàng đế, lập triều đại nhà Lý, mở ra kỷ nguyên Đại Việt.
Vì làng Diên Uẩn có cây gạo bị xét đánh nên được đổi tên là Đình Sấm hay Dương Lôi, nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, hiện giờ vẫn còn đền thờ bà Phạm Thị Ngà, thân mẫu vua Lý Thái Tổ. Đền vẫn còn đủ ngai, sắc thờ tám vị vua nhà Lý (Lý Bát Đế), hàng năm, vào ngày12 tháng 2 Âm lịch dân ta mở hội để kỷ niệm ngày sinh của Lý Công Uẩn.
Cũng bởi tính tò mò mà Hân đã tốn khá nhiều thời gian để tìm hiểu. Cuối cùng thì chàng cũng tìm ra được một sự thật: Cây gạo là một linh thụ xuất hiện ở nước ta từ hoặc trước thế kỷ X.
Theo nhà văn Lê Đình Bảng và nhà dân tộc học Lý Khắc Cung, ‘Thần cây đa, ma cây gạo, cáo cây đề’ là một thành ngữ được truyền khẩu rộng rãi trong dân gian, làm cho ta phải suy nghĩ về mặt tín ngưỡng của người dân, nhất là những người dân nông thôn nghèo khổ. Đã có biết bao huyền thoại về sự mê tín dị đoan xoay quanh cây gạo và dần dà hình thành như một thứ tín ngưỡng.
Cũng như cây đa, cây gạo là loài cổ thụ cao, to, sống lâu với cành lá xum xuê che nắng che mưa, ngăn chặn bão táp cho dân làng, nó là điểm chuẩn để định hướng cho dân trong vùng và khách bộ hành, đồng thời nó còn là nỗi nhớ của khách tha hương.
Để thiết kế làng thôn, các cụ ta xưa đã dạy: ‘Đầu đa, gạo cuối, chuối trước sau’ có nghĩa là phải trồng cây đa trước cổng làng và cổng sau trồng cây gạo còn chuối thì trồng hai bên hông. Cây gạo tượng trưng cho cuộc đời, cho đức tính ngay thẳng, kiên cường, nó là điểm hẹn hò của chim muông, bởi thế các bậc túc nho mới tước phong cho cây gạo là ‘Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong’ là như vậy. Thiện nam tín nữ đi vãn cảnh Chùa Hương vào khoảng tháng tư, tháng năm Dương lịch, khi rong thuyền dọc theo suối Yến sẽ có dịp được ngắm hoa gạo nở đỏ rực hai bên bờ suối. Gió ngàn lồng lộng, hoa gạo tung bay, xoay tròn, đáp xuống nền xanh lam của núi rừng, đáp xuống mặt hồ, thậm chí đơm cả vào thuyền khách như chắp cánh cho những mối lương duyên, văn thơ hẳn đã không quá lời khi ví hoa gạo là hoa tình yêu.
Ở Tây Nguyên, các dân tộc Ê-Đê, Gia-Rai, Ba-Na và Sê-Đăng thường gọi cây gạo là cây Pơ-lăng. Trong lễ Đâm Trâu, họ cũng cột con vật hiến sinh vào thân cây gạo trước sân Nhà Rông để làm thịt dâng cúng thần linh, Tháng bẩy Âm lịch, dân bản cũng bầy của lễ bên gốc cây gạo để hiến lễ cho cô hồn và vì thế cây gạo lại có thêm một cái tên là cây hiến sinh. Đối với các dân tộc Thái và Tây Nguyên, cây gạo rất có ích.
Tháng tư hoa nở rồi kết trái. Khi quả đã già sẽ lần lượt tách bung ra, sợi trắng như bông bay tứ tán. Người ta phải trèo lên thu hoạch trước để khỏi thất thoát. Sợi gạo có thể thay thế cho bông gòn để nhồi nệm trải giường, may áo ấm và làm phao vượt sông. Gỗ cây gạo trắng, thớ mịn, dùng làm áo quan cho cha mẹ, ‘Nhất vàng tâm, nhì cây gạo’ là như vậy. Nhựa cây gạo rất dính có thể dùng để bẫy chim. Theo y học cổ truyền, cây gạo có nhiều dược tính chữa trị một số bệnh rất công hiệu: Vỏ thân gạo có vị cay, tính bình có công dụng thanh nhiệt, hoạt huyết, tiêu thũng. Hoa gạo có vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt, giải độc, chỉ huyết. Rễ gạo có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, cầm máu, se vết thương. Hạt và nhựa cây gạo cũng có dược tính để chữa những chứng bệnh đau ngực của sản phụ hoặc hạ sốt cao cho trẻ em vào mùa Hè.
Tùy theo địa phương, tùy theo sắc tộc và cũng tùy theo đặc tính đặc thù mà người ta đặt tên cho nó. Cây gạo còn gọi là mộc miên (cây bông thân gỗ), hồng miên (cây bông có hoa đỏ), anh hùng thụ (cây gạo có thân cao, thẳng, tượng trưng cho đức tính ngay thẳng kiên cường), cổ bối (một cây cổ xưa quý giá (?), hiến sinh (người Tây Nguyên làm lễ đâm trâu dâng tế thần linh hay cúng cô hồn giữa những cột cây gạo). Ở Tây Nguyên người ta thường gọi hoa gạo là ban chi hoa hay hoa pơ-lăng. Theo khoa học, cây gạo thuộc họ MALVACEA, chi BOMBAX, loài Bombax Ceiba hay còn gọi là Bombax Malabaricum.
Eo ơi, sao mà lắm tên nhiều họ thế không biết! Hết Tầu đến Tây rồi đến Ta nữa. Chẳng cần rắc rối nhiêu khê, Hân nhận thấy 2 chữ cây gạo nghe nó quen thuộc thân thương làm sao ấy, cây gạo là một dấu ấn sâu đậm trrong tâm hồn Hân, một tâm hồn non dại trẻ thơ chưa tròn 9 tuổi, nó bắt nguồn từ cuộc chiến bi thảm toàn cầu nói chung và trên lãnh thổ Việt Nam nói riêng, dẫn đến nạn đói năm Ất Dậu 45.
Sau này, khi đã lớn khôn hơn, Hân được nghe bập bõm người lớn kể rằng nước ta từ trước đến nay, chưa bao giờ lâm vào nạn đói trầm trọng như năm Ất Dậu 1945. Miền Nam do thiên nhiên ưu đãi nên thóc gạo hoa mầu thu hoạch khá. Miền Bắc, đất đai tuy kém mầu mỡ, thời tiết tuy khắc nghiệt, với sản lượng hàng năm cũng không đến nỗi để người dân quá đói khổ. Sau vụ khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 1930, Pháp quay lại với chính sách bảo hộ hà khắc, độc quyền khai thác về mọi mặt tại Đông Dương dĩ nhiên trong đó có Việt Nam. Khi đại thế chiến bùng nổ, Pháp bị yếu thế. Tại Đông Á, Nhật bắt đầu bành trướng thế lực và nhắm vào Đông Dương như đầu cầu tiến qua Nam Á và khống chế Trung Quốc. Giữa năm 1940, Pháp bị Đức chiếm, Nhật gây sức ép với Pháp rồi năm sau tiến vào Đông Dương. Việt Nam bị cuốn vào nền kinh tế thời chiến vì Nhật Pháp tranh giành quyền kiểm soát kinh tế. Từ trước, Pháp đã bắt dân ta hủy bỏ ruộng lúa dể trồng đay, gai và bông gòn. Nay Nhật cũng bắt dân trồng đay thay trồng lúa, hậu quả dẫn đến sự kiện thu hẹp diện tích trồng lúa và hoa mầu phụ.
Việt Nam bị Nhật chiếm đóng và quân đồng minh mà chủ chốt là Mỹ thường xuyên oanh tạc đánh phá các khu mỏ than, nhà máy và các tuyến đường giao thông vận tải cho nên việc vận chuyển lúa gạo từ Nam ra Bắc hầu như bị tắc nghẽn. Trong khi đó, cả Pháp và Nhật đều ra sức vơ vét lúa gạo với chế độ cưỡng bách thu mua để phục vụ nhu cầu chiến tranh của họ. Khi bộ máy chính quyền Pháp tan rã nên không thực hiện được việc tiếp vận và phân phối lương thực. Từ nạn thiếu ăn kéo dài biến thành nạn đói từ đầu năm 1944. Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Việt Nam đương thời tuy đã dồn nỗ lực cứu đói cho dân, nhưng gặp trở ngại lớn vì quân Nhật vẫn duy trì chính sách cũ. Bên cạnh đó, thiên tai chụp lên miền Bắc như lũ lụt, hạn hán, sâu rầy, nạn đói trở nên bi thảm hơn, trong khi các kho đụn của Nhật chất đầy lúa gạo, hoa mầu để nhằm phục vụ cho mưu đồ Đại Đông Á. Trong Nam lương thực dư thừa nhưng không sao tiếp tế được cho miền Bắc, lúa ngô thặng dư đã phải xử dụng làm chất đốt thay nhiên liệu cho xe, tàu và nhà máy...Nông dân miền Bắc không có gì để ăn, không còn gì để mua, số người chết đói gia tăng, dẫn đến tình trạng không còn người lao động, ruộng đồng bỏ hoang, những người sống sót dìu giắt nhau bỏ làng bủa đi tha phương cầu thực. Họ vào thành phố, thất thểu xiêu vẹo như những bóng ma, gục ngã lần mòn giữa chợ, trên hè phố, những thanh thiếu niên còn chút sinh lực thì trộm cắp hay cướp giật, móc túi giữa ban ngày...Với nổ lực cứu trợ của chính quyền cũng như dân địa phương đã không cứu vãn được tình hình bởi vì chính người dân thành phố cũng phải ăn độn ngô khoai. Hân còn nhớ như in một vài hình ảnh thật thương tâm, thật khiếp đảm trong những ngày đói khổ hoành hành. Hân nhớ lại ngày ấy, cứ khoảng 5 giờ sáng đã có tiếng lộc cộc của những chiếc xe bò mầu đen hắc ín dài thòng của sở vệ sinh, thời đó gọi nôm na là những xe đổ thùng, chạy dọc theo các đường phố để thu nhặt xác chết. Hân đã chứng kiến tận mắt xác người chồng chất trên xe đổ thùng, những bàn chân đen đủi, phù thũng, lở loét thò ra, đong đưa run rẩy theo nhịp xe lăn. Có một buổi sáng, Hân mở cửa đi học không được, mấy anh em bèn hè nhau xô mạnh cũng không có kết quả. Cuối cùng thì anh xe phải leo tường ra đường để kéo xác hai ông bà già gầy guộc ôm nhau dựa vào cửa nhà Hân để chết cứng tự bao giờ. Lại một buổi sáng mùa đông, mẹ cho 2 hào ăn sáng. Hân cắp cập ra đầu ngõ mua gói xôi vừa đi vừa ăn thì thình lình Hân như bị xô chúi xuống đất, gói xôi vuột mất trên tay từ lúc nào.Một thằng bé hay con bé mà Hân không nhận ra bởi vì đầu tóc nó bù xù, mặt mũi lem luốc, quần áo đen đủi, rách nát tả tơi, nó không bỏ chạy mà đứng cách Hân chỉ vài ba bước, ngồm ngoàm nắm xôi thiếu điều như muốn nuốt chửng. Hàng phố kêu cướp thất thanh, bác cảnh sát túm cổ nó, bạt tai nó nhưng nó vẫn thản nhiên tọng phần ăn sáng của Hân vào mồm nó. Về phần Hân, vẫn chưa hoàn hồn, Cậu học trò đứng run như cầy sấy, dĩ nhiên chẳng phải vì lạnh, mà vì nỗi kinh hoàng thì đúng hơn...Cho đến tận bây giờ, người ta đã gần như quên đi hay cố quên đi cái đói năm Ất Dậu, thì Hẫn vẫn nhớ như in trong lòng hình ảnh chiếc xe chở xác người đi qua thành phố, hình dáng đứa trẻ cướp giựt gói xôi mà không khỏi bồi hồi xúc động.
Lại nói về cuộc chiến 45 tại miền BắcViệt Nam lúc bấy giờ. Cứ cách đôi ba ngày, máy bay đồng minh thình lình lại xuất hiện để oanh tạc vào những trọng điểm như vùng mỏ than, nhà máy, cầu đường và những trục lộ giao thông huyết mạch, lắm khi cũng bắn phá vào những khu vực đông dân cư ven biên thành phố như khu cầu Hạ Lý...Mỗi lần còi báo động hú lên là dân phố lại giắt díu nhau xuống tranchée của khu phố hay hầm hố do gia đình tự tạo để lánh bom, chỉ khi cuộc đánh phá chấm dứt, sinh hoạt của người dân mới trở lại bình thường. Đôi khi những cuộc đánh phá gay gắt kéo dài, có khi trở đi trở lại đến hai lần trong ngày, Đã nhiều lần cha mẹ Hân phải chuẩn bị cơm nắm muối vừng đưa con cái tạm rời nhà cửa chạy vào làng Đôn tránh bom và chỉ trở về thành phố vào xâm xẩm tối, khi các cuộc oanh kích đã chấm dứt...
Nhưng tình hình đi đến giai đoạn khốc liệt hơn: Máy bay đồng minh không những trút bom đạn vào những khu trọng yếu mà còn oanh kích vào cả trong thành phố Hải Phòng. Dân thành thị buộc phải rời bỏ phố phường, chạy ra ngoại ô về đồng quê tránh bom đạn. Gia đình Hân cũng theo làn sóng tản cư về làng Đôn. Thoạt đầu, cha mẹ Hân cho rằng rời thành phố lánh bom chỉ là tạm bợ như mọi lần, yên tĩnh thì lại về thành. Nhưng mỗi lúc một nghiêm trọng hơn, bom đạn cứ vô tình trút xuống thành phố, đứng trên Cầu Niệm, đường đi Kiến An, nhìn về thành phố, những cột khói đen ngòm bốc lên từ những bể lửa khổng lồ đỏ rực cả một góc trời. Khu nhà Hân chắc chắn đã biến thành bình địa, cha Hân bảo thế. Thế là cha mẹ chàng quyết định đem con cái đi lánh nạn, càng ngày càng xa dần thành phố. Thôi thì bằng đủ mọi phương tiện, khi thì đường bộ, khi thì đường sắt, thậm chí có lúc phải vượt sông bằng cả thuyền đò hay mướn người gánh hai em của Hân để lặn lội lên tận đồn điền của ông cậu ruột chàng trên Sơn Tây.
Dinh cơ của cậu Hân tọa lạc một phần ở Bằng Lũng tiếp giáp với chân núi Ba-Vì thuộc tả ngạn sông Hồng chuyên canh lúa gạo và một phần ở hữu ngạn sông Hồng thuộc tổng Cự-Linh, phủ Quốc Oai, chuyên trồng mía và một số hoa mầu phụ như đỗ, lạc, ngô, khoai...Đến mùa thu hoạch, mía được chuyển về đồn điền, dùng trâu ép mía, hộn mật và làm đường cát.
‘Bản doanh’ của cậu Hân là một ngôi biệt thự đồ sộ, lợp ngói tây mầu gạch tôm, tường quét vôi hồng, ngự trị trên một nền đá cao dễ đến cả hai thước, hai bên hông tam cấp chạy vòng cung lên thềm hoa, mặt tiền của ngôi biệt thự nhìn ra giòng sông mầu mỡ phù sa, có con đê uy vũ trấn giữ.
Từ lan can biệt thự nhìn ra sông Hồng, một cây đại thụ thân gốc xù xì những mấu với gai ngạo nghễ vươn cành như những cánh tay Hộ Pháp bảo vệ dinh cơ của Ông Đốc (dân phủ Quốc Oai thường gọi cậu Hân như thế, mặc dù ông chỉ là một trong một số ít dược sĩ đầu tiên ở nước ta thời bấy giờ), mùa Hè xum xuê bóng mát, cuối Thu sang Đông, trút lá trơ cành để rồi mùa Xuân mở hội, khoảng cuối tháng ba hoa khai đỏ rực: Đó là cây gạo duy nhất trong vùng. Những ngày đầu năm, nắng Xuân rực hồng ấm áp, những bông hoa gạo tươi thắm đầu tiên chấm phá trên cành. Khi hoa đã đơm dầy đặc thì một mầu xanh của lộc non mơn mởn điểm xuyết chen giữa muôn hoa tạo ra một tấm thảm tương phản nhưng hài hòa, tươi vui, đẹp mắt. Cây gạo lúc này như một điểm hẹn thu hút chim muông, lúc thì đàn sáo sậu từ mé sông nhào lên bu lấy vòm cây gạo gây gỗ om xòm rồi thoát chốc hè nhau xà xuống ruộng mía mất hút. khi thì đôi sáo mỏ ngà truyền cành đuổi nhau âu yếm, họa hoằn có chú quạ cô đơn đậu chót vót trên ngọn cao im lìm bất động như một thiền sư...Bước sang đàu tháng năm, gió sông vẫn đem về cái mát dìu dịu nhưng nắng trở nên gay gắt hơn và hoa gạo bắt đầu lác đác rụng. Hân còn nhớ kỷ niệm của mấy anh em chàng chạy nhẩy nô đùa xung quanh cây gạo bên bờ sông Hồng, cứ mỗi lần gió sông thổi về là một lần hoa rụng. Đài hoa gạo tuy nặng nhưng nhờ năm cánh hoa xòe ra, nên khi rụng, bông hoa gạo bọc lấy gió sông xoay tròn và đáp xuống nhẹ nhàng trên mặt đê tạo ra những tiếng kêu lụp bụp. Những cánh hoa nào đáp trên thảm cỏ thì êm ả như một chàng lính dù thiện nghệ. Anh em Hân hết nô đùa, lại ngửa cổ lên cây gạo để giành nhau cướp lấy những cánh hoa dù xoay tròn trên không trung, rồi xen vào tiếng chí chóe để phân bua công bằng, và tiếng cười ròn để khoe đắc thắng...
Lũ anh em Hân còn nhỏ, chỉ biết vui chơi hồn nhiên chứ có biết đâu những nỗi lo của cha mẹ, bởi vì hầu như ngày nào cũng có máy bay đồng minh đánh phá thuyền bè qua lại trên sông, lâu lâu lại có lính Tây đi càn, cha mẹ Hân lại vất vả đem con đi ẩn náu vì các chị Hân đã lớn. Ngoài trồng dâu nuôi tầm và một số công việc đồng áng, cha mẹ Hân cứ luôn luôn canh cánh trong lòng: bao giờ mới chấm dứt chiến tranh để con cái được cắp sách đến trường!
*****
Cuối cùng thì sau gần hai năm chạy loạn, gia đình Hân từ bỏ hậu phương, vượt qua vùng Tề để hồi cư về Hải Phòng. Thành phố chưa được hồi sinh, cảnh đổ nát hoang tàn khắp nơi. Gia đình Hân phải làm lại tất cả từ đầu, anh em Hân lại được cắp sách đến trường và mỗi sáng chủ nhật, anh em Hân lại được cha dẫn đi ăn phở Dưỡng ở Ngõ Cố Đạo, gần Cầu Đất... Rồi từ đó, mỗi độ Xuân về, trên bàn thờ tổ tiên lại có hoa đào, lại có hoa hải đường, nhưng... tuyệt nhiên không thấy bóng cây gạo trong phố thị, tuy thế Hân vẫn nhớ hình dáng cây gạo ven sông của những ngày tháng loạn ly.
1954 đất nước chia đôi! Hân lại thêm một lần rời bỏ quê quán, theo gia đình di cư vào Nam. Ở đây, mùa Xuân không có hoa hải đường và cũng không có hoa gạo, dĩ nhiên cũng không có các giống đào như Đào Phai (hoa nhiều, mầu hồng, lá phơn phớt xanh), Đào Bạch (hoa trắng, thưa), Đào Bích (đẹp nhất, dầy hoa, cánh kép, đỏ thẫm, lá xanh đậm). Song, duy nhất chỉ có một giống Đào Quả (hoa cánh đơn mầu hồng nhạt) được ươm trồng trên vùng cao nguyên Lâm Viên cốt để lấy hoa chứ không lấy quả. Mùa Xuân, người miền Nam chơi mai vàng. Muốn hội nhập, mẹ Hân cũng sắm cành mai để thưởng Xuân nhưng cụ chọn bằng được giống mai cổ thụ chặt từ rừng Phan Thiết, có cành xù xì gẫy khúc, lá nhỏ, hoa vàng cánh đơn, ngắm dáng cành với hoa chấm phá, đẹp như trong tranh Tầu.
Năm 1975 thành phố Sài Gòn mất tên, hàng triệu người rời bỏ quê hương, bất chấp hiểm nguy, vượt đại dương đi tìm đất hứa. Gia đình Hân, kẻ tù đầy, người ra đi, người ở lại: Tan tác! Đau thương! Kẻ ở người đi, mãi rồi cũng gặp nhau trên vùng trời tự do. Nhìn trên bản đồ Hân mới thấy xa cách quê hương cả nửa vòng trái đất. Với Hân, càng xa quê hương bao nhiêu, chàng càng nhớ hoa hải đường và cây gạo ven sông bấy nhiêu...
Phàm là người Việt, mấy ai quên được cái chết của trên dưới hai triệu người do nạn đói năm Ất Dậu 1945 thuở nào! Tính đến năm ngoái, năm Ất Dậu 2005, là vừa tròn sáu chục năm. Thuở ấy, bé Hân tuy mới 9 tuổi đầu mà đã là nhân chứng của thảm cảnh người chết đầy đường vì nạn đói. Bé cũng là nhân chứng của những ngày tản cư kham khổ, của những vụ Tây càn, những vụ oanh tạc tàn phá quê hương, mối thương cảm, nỗi hãi hùng cho đến nay vẫn còn đọng lại trong lòng Hân mỗi khi nhắc đến hoa hải đường hay nhắc đến hoa gạo.
Khóm hồng nhung trong vườn nhà Hân như một bùi nhùi âm ỉ nhen nhúm tình gia đình, tình quê hương, nó khêu gợi hoài niệm sâu đậm nhất trong lòng người viễn xứ, nhất là vào đêm giao thừa Dương lịch ở Hòa Lan lúc trời đất giao thoa, tiếng pháo nổ râm ran mọi xóm mọi nhà để đón mừng Xuân mới, cũng là lúc chàng bồi hồi nghĩ về những mùa Xuân ly loạn.
Nhớ về Mùa Xuân Ất Dậu 1945
Ðào Quốc Bảo
(Trích từ: Gió Thoảng Hương Yêu, tuyển tập thơ văn của cùng tác giả, sắp xuất bản)