Nguyễn Lê Hồng Hưng


Tết Trên Biển Giữa Đám Khùng

 

Năm nay mùa đông tới sớm và thời tiết lạnh hơn mọi năm, mới tháng một mà dọc theo bờ biển phía Bắc nước Nga băng dầy lên gần cả thước. Những tàu buôn ra, vào hải cảng phải chờ đủ một đoàn rồi nhờ hạm phá băng chạy trước dẫn đường.

Chiếc Elisabeth rời cảng St.Petersburg hồi khuya, bây giờ đã ra tới lằn nước xanh và hướng về kinh đào Kill để vào hải cảng Hamburg.

Sau bữa ăn trưa thủy thủ đã rút hết vô phòng, ngoài boong vắng ngắt. Công việc buổi sáng của đầu đếp coi như đã xong. Tôi lên phòng tắm rửa và chuẩn bị nghỉ trưa. Tôi có thói quen mỗi khi lên giường nằm thì phải đọc cái gì đó. Lay quay tìm trong chồng sách báo nhưng toàn những cái đã đọc hết rồi. Khi đó tôi mới nhớ là hôm ở St. Petersburg tôi có lên internetcafe tải mấy bài trên mạng, còn giữ trong mp3 chưa in ra giấy. Tôi tháo giây đeo lấy chiếc máy nhỏ ra, bỏ máy vô túi rồi đi lên phòng lái.

Jannet ngồi trên ghế lái bên trái, Viktor đứng cạnh bên ghế tay phải, thấy tôi lên hai đứa chào một lượt. Viktor vẫn chăm chú ngó về phía trước, tay cầm chặt cần lái điều khiển con tàu. Tôi nhìn xuống boong tàu và đảo mắt ngó mông lung ra vùng biển trước, những cơn giông giật kèm theo sương tuyết lướt qua, dán lại đông đặc một lớp mỏng trắng trên nóc những containers, không gian mù mờ, mặt biển mơ màng như chứa chan một nỗi buồn lạnh lẽo.

Tôi đi lại phòng vi tính gắn mp3 vô và bấm chuột in bài.Viktor đã định hướng con tàu xong. Nó gài lái tự động rồi đi qua lấy bình cà phê rót ra mời tôi. Jannet cũng rời ghế lái đi qua đứng cạnh bên, chờ tôi in xong rồi chỉ vô mấy dấu nhạc trong màn ảnh vi tính và hỏi nhạc gì. Tôi nói nhạc Việt Nam. Nó liền đi xuống phòng lấy mp3 của nó lên và hỏi xin copy mấy bản nhạc. Tôi đứng dậy giao máy cho nó và sắp xếp lại giấy tờ mới vừa in. Viktor tới cầm lên một tờ khôi hài lẩm bẩm đọc vài câu rồi để xuống, lắc đầu:

– Tui hổng hiểu gì hết.

Tôi nói:

– Muốn hiểu thì mầy phải học.

– Tiếng Việt khó thấy mồ.

– Tiếng Nga còn khó hơn.

Viktor chỉ hừ một cái rồi nói:

– Tui muốn quên hết nhưng không quên được.

– Nếu quên hết rồi khi về nước mầy nói tiếng gì.

– Ukrainia cũng có tiếng riêng.

– Tao nghe nói tiếng Ukrainia và tiếng Nga cũng na ná như nhau, tuy nhiên biết thêm một ngoại ngữ thì cũng tốt.

Jannet ngồi bên ngứa miệng xía vào:

– Viktor còn giận mấy thằng Nga ở St. Petersburg.

Tôi vừa bấm kim kẹp lại giấy tờ vừa nói với Jannet:

– Sao lại giận, sáng hôm kia tao thấy cảnh sát chở nó với Ivan xuống tàu mà.

Jannet chưa kịp nói gì, thì Viktor đính chánh:

– Họ chở tụi tui xuống tàu lấy tiền chuộc giấy tờ.

– Giấy tờ gì mà phải chuộc?

– Ông hổng biết gì hết à?

– Tao tưởng tụi mầy bạn bè với cảnh sát, đi chơi trễ được họ chở về, chớ có biết khỉ gì đâu.

Viktor cười thành tiếng:

– Tui với Ivan bị du đãng chận đánh và lấy hết giấy tờ, tiền bạc. Tụi tui đi báo cảnh sát, họ kêu đưa tiền chuộc, lúc đó trong túi còn tiền đâu, nên tụi tui kêu họ chở xuống tàu lấy.

– Cảnh sát làm trung gian cho tụi du đãng à?

– Chắc là vậy.

– Chậc, ở Nga dạo nầy phức tạp quá.

Nghe tôi phán một câu trúng ý, nó nói ngay:

– Đúng rồi, thời Cộng Sản đâu có như vầy.

Viktor cũng như một số người đã sống trong thời nước Nga còn là Xã Hội Chủ Nghĩa, nên nó thường hay tiếc nuối cái thời mà ai cũng có ăn, có mặc giống như nhau, cũng không có trộm cắp, cướp của giết người xảy ra và nhiều tội ác như bây giờ...

– Nhưng...

Thấy tôi ngập ngừng, tưởng tôi bí, nó đắc ý nhướng mắt hỏi như thách thức:

– Nhưng sao?

– Nhưng mấy quốc gia mới tập sự làm tư bản đều là vậy hết.

– Cái gì, ông nói mới tập sự nghĩa là sao?

– Nghĩa là những quốc gia trước kia theo chủ nghĩa Cộng Sản, nay mới tập sự làm tư bản, thì những kẻ có chức có quyền thường hay bao che bọn Mafia và du đãng. Cách đây mấy năm đám đầu trọc ở St.Petersburg đâm một sinh viên Việt Nam chết. Khi ra toà, bọn giết người được toà án tha bổng. Còn ở những nước tư bản lâu đời, người làm chánh quyền, dù cho là tổng thống đi nữa, hễ có liên hệ với bọn Mafia hay làm chuyện phi pháp thì sẽ bị truy tố ra toà.

Nghe tôi giải thích Viktor cười khằng khặc:

– Đúng rồi ở nước tui cũng vậy, ăn cướp, giựt dọc, buôn ma túy, bán phụ nữ và đĩ điếm... đều được bao che.

– Mới đây tao nghe một sinh viên Việt Nam bị đâm chết ở Mockba. Rồi tuần trước trong một tỉnh nào đó ở Nga cũng có một người Việt bị người bản xứ giết chết tại nhà. Tao nghĩ rồi mọi chuyện cũng bị toà án xử cho qua thôi, dân ăn nhờ ở đậu khổ lắm mầy ơi.

– Nghe nói mafia Việt Nam ở Nga dữ tợn lắm mà.

– Mafia thì làm sao du đãng dám đụng tới, đằng nầy sinh viên du học và dân thường.

– Dân Nga kỳ thị người ngoại quốc chớ không riêng gì dân Việt Nam đâu.

– Thật ra thì dân Nga rất tốt, cho tới giờ tao vẫn còn quí trọng dân nước nầy. Nghĩ cho cùng cũng tại vì một số người Việt Nam sang Nga làm nhiều chuyện phi pháp nên mới liên luỵ tới những người lương thiện.

– Nhưng, dù sao ở Nga còn đỡ hơn ở Mỹ.

– Đỡ chỗ nào?

– Ở Mỹ mua bán súng đạn tự do, du đãng Mỹ chơi súng chết người hàng loạt, ở Nga chơi dao chết người lẻ tẻ.

– Không riêng gì nước Nga hay nước Mỹ, tao nghĩ, nếu ở Nga được tự do mua bán súng, đạn tao chắc rằng ngày nào cũng có hàng loạt người dân Nga bị ăn đạn.

– Ông nghĩ vậy sao?

– Kinh tế suy thoái khắp nơi làm con người ta mất quân bình nên sanh ra đố kị, hận thù. Lòng thù hận làm cho tánh khí con người mỗi lúc một hung hăng... đụng chuyện thì có dao chơi dao, có súng chơi súng, giết chết nhiều chừng nào khoái chừng nấy.

Viktor gật gù:

– Ông tưởng tượng nhiều quá, tui chưa bao giờ nghĩ như ông.

– Tao cần gì phải tưởng tượng, chuyện giết người xảy ra như cơm bữa, khắp nơi trên thế giới người đui cũng nghe, người điếc cũng thấy mầy còn nghĩ ra cái gì nữa.

– Ha ha...

Chợt Viktor nhìn ra phía trước, thấy con tàu đã đi vào khối sương mù dầy đặc, nó vội nhảy lên ghế lái, mắt chăm chú ngó vào radar, tay cầm chặt cần điều khiển...

 

Cùng lúc tôi nghe âm thanh phát ra từ mấy chiếc loa trên trần mui, giọng hát ngọt ngào của một nữ ca sĩ Việt Nam: “Xuân đến rồi ngàn hoa thắm muôn nơi, xuân hé nở, bé thơ vang tiếng cười...” Tôi day lại thấy Jannet vừa đi, vừa nhún, vừa lắc cái thân hình đồ xộ của nó theo điệu chachacha... Tới trước mặt tôi nó chìa cái máy mp3 ra trả và hỏi tôi ý nghĩa của bản nhạc. Tôi nói đó là nhạc Xuân. Nó à lên một tiếng:

– Tết Việt Nam sắp tới rồi phải không?

Nhẩm tính ngày tháng rồi mới nhớ ra, tôi ngước lên nói với Jannet:

– Còn hai ngày nữa.

Nếu nó không hỏi thì tôi đã quên luôn cái tết truyền thống Việt Nam rồi. Mấy năm về trước mỗi khi gần tết Nguyên Đán tôi hay kể về tập tục Tết Việt Nam cho đám thủy thủ nghe. Có dịp tàu ghé những cảng gần tiệm Tàu hoặc gần chợ Việt, tôi lên mua bánh mứt đem xuống đãi cả tàu ăn trong giờ uống cà phê và ngày mùng một tôi dọn một bữa ăn đặc biệt. Nhứt là đám In Đô, kể cả những người theo đạo Hồi, cũng rất thích cái món thịt heo kho trứng, cái món ăn truyền thống vào mấy ngày Tết của miền nam Việt Nam. Tuy nhiên làm vài lần tôi mới nhận ra, thật tình thì tết nhứt ở trong lòng tôi thôi, chớ mấy người chung quanh thì chẳng ai màng tới. Từ đó trở đi có biết tết đến tôi cũng lờ cho qua. Tôi đưa mắt ngó ra ngoài, Tết nhứt gì mà sương mù đầy đặc và lạnh thấu xương, thà Jannet đừng hỏi tới còn hay hơn. Tôi không muốn nói chuyện tết nhứt giữa lúc lòng tôi đương ray rức. Tôi chào hai đứa và cầm mấy bài báo vừa in xong đi về phòng.

Không hiểu sao trong lòng tôi bồn chồn, đầu óc như đông đặc, mở cửa sổ ra thì lạnh, đóng cửa lại thì bực bội, lên giường nằm không ngủ được, đọc chữ không vô... Tôi gắn cặp loa nhỏ vô tai, mở mp3 nghe chương trình phát thanh mấy ngày trước mà tôi tải xuống từ trên mạng, nhờ âm thanh ồn ào giúp tôi nằm yên được một lát. Đương thiu thiu ngủ chợt nghe xướng ngôn viên đọc tới một đoạn tin, cảnh sát Tiệp vừa tra tấn đến chết một phạm nhân người Việt. Tôi tỉnh ngủ và bật dậy như chiếc lò xo bung. Hít vô thiệt sâu, thở ra một cái thiệt dài, ấy vậy mà ngực vẫn còn nghèn nghẹn. Nhìn đồng hồ thì đã tới giờ làm việc. Mất toi một buổi trưa, chẳng nghỉ ngơi được gì hết.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “ Bần cùng sanh đạo tặc” . Nhưng tôi biết trong thời buổi nầy, ở nước Việt Nam, chỉ có bọn người khá giả, họ có thể bỏ ra hàng chục ngàn đô la Mỹ để được đi ra nước ngoài, nếu biện minh rằng họ không biết gì mới bỏ tiền ra đi thì cũng không đúng. Trước khi lên đường, họ biết những đường dây trồng cần sa, buôn bán phụ nữ, ma tuý xì ke, thuốc lá... Một số có chức có quyền như đại sứ quán và phi công là những nghề sang trọng, thuộc loại trí thức. Hơn thế nữa, họ đại diện nhân cách cho cả quốc gia mà vẫn buôn lậu, thông đồng với bọn rửa tiền và trộm cắp... Tánh người tham lam, biết chuyện bất lương là phi pháp nhưng vẫn làm đến đỗi lớp đi tù, lớp chết tức tưởi và chết nơi đầu đường xó chợ... Những người nầy làm sao bảo họ vì bần cùng rồi sanh đạo tặc được. Chỉ tội cho những người bần cùng hiện nay bị đám buôn người đưa đi làm nô lệ khắp nơi, bị đè đầu cưỡi cổ, những người đáng thương họ không bao giờ trở thành đạo tặc được. Tôi không muốn nghe thêm gì nữa, bấm tắt máy, tháo cặp loa nhỏ xíu trên hai tai ra thẩy lên bàn và bước vô phòng tắm, rửa mặt, chải tóc, thay áo quần rồi mở cửa đi ra ngoài.

Vừa xuống tới phòng bếp thì đã thấy ông Luis tay cầm cái tách và bịch trà đi vô khoe với tôi:

– Trà nầy của thuyền trưởng cho tao.

Tôi nhìn trên nhãn hiệu bao trà thấy đề trà ướp nhiều loại trái cây, tôi nói:

– Trà của thuyền trưởng cho thì chắc chắn là ngon hơn trà trên tàu rồi.

– Nhưng của ông Af. chớ không phải của tên thuyền trưởng keo kiệt nầy đâu.

– Sao?

Mặt khinh khỉnh, cười khằn khặc ông nói tiếp:

– Thuyền trưởng giống y con nít.

Tôi day qua, từ tốn nói:

– Gần ba mươi năm trước, lần đầu xuống tàu tập sự, tui được nhiều thuyền trưởng và thuyền viên thương mến, trong đó có ông, tận tình giúp đỡ. Lúc đó tui thấy nhân cách thuyền trưởng và thuyền viên rất cao, cũng nhờ vậy mà tui mới yên tâm sống với nghề thủy thủ cho tới hôm nay.

Nghe tôi nói chuyện ân nghĩa, ông tươi cười:

– Đó là thời lớp trước, cái thời nhiều người hải hành vì thích phiêu lưu, ngày nay cả đám kéo theo tàu vì muốn kiếm tiền, kiếm ăn nên phần đông bần tiện và hống hách chẳng ra gì.

– Ờ nghe ông nói tui mới để ý, nhiều thủy thủ ngày nay có thằng đi chưa hết công tra thì nhớ nhà khóc sưng mắt, có thằng đi suốt mấy tháng trời mà hổng dám léo hánh lên bờ, hỏi ra thì nó đưa ngón tay cái ra chà chà vô ngón trỏ và nói tốn tiền lắm. À, nhưng tụi mình cũng đi vì tiền, vì miếng cơm anh áo vậy thôi.

– Đành vậy, nhưng lúc đó tao chọn nghề nầy vì thích phiêu lưu.

– Cũng có lý, nhưng thuyền trưởng làm gì mà ông bực bội vậy?

– Chuyện của mầy đó, chỉ miếng bánh kem mà nó đi điều tra trong đám thuyền viên coi thằng nào, con nào đã ăn phần bánh của nó.

Ba chuyện cái nhỏ mọn chẳng ra gì, nếu ông Luis không nhắc thì tôi đã quên rồi. Số là lúc sửa soạn bữa ăn trưa, tôi chăm chú sắp xếp thức ăn vô dĩa chợt nghe viên thuyền trưởng chưởi thề phía sau lưng, tiếp theo là câu hỏi:

– Bếp, chuyện gì đã xảy ra?

Tưởng ông ta giỡn chơi nên ngó lên và hỏi lại:

– Chuyện gì là chuyện gì?

– Bánh kem đâu?

À! Tôi chợt nhớ ra, hồi sáng tôi cắt bánh kem chia mỗi người một phần và sắp ra hai dĩa, để bên phòng thủy thủ một dĩa và phòng officers một dĩa. Sau giờ cà phê tôi dọn dẹp ly tách thì đã thấy hai dĩa bánh hết sạch. Tôi day lại nói:

– Xin lỗi, hết rồi.

Chợt nghe ông chưởi thề thêm một cái với giọng bực tức, mặt mày ông nhăn nhó trông rất buồn cười:

– Ông hổng ăn bánh sao?

– Hông, tao hổng có miếng nào hết.

Coi mòi nói chuyện như người lớn không được nữa nên tôi nghiêm giọng nói theo lối dụ dỗ con nít:

– Miếng bánh nhỏ xíu đâu có gì, tuần sau tôi bù cho ông hai miếng lớn hơn, giờ nầy là giờ là ăn trưa, hôm hay có món bít tết sốt tiêu xanh cũng khá hấp dẫn.

– Tui muốn bánh kem ngay bây giờ.

Bực mình tôi sẵng giọng:

– Tui nói hết rồi, nếu ông muốn thì kêu mấy thằng thuyền viên ói ra cho ông ăn.

– Ông nói tui vậy hả?

– Thuyền trưởng mà vậy sao?!

Thấy tôi sắp nổi nóng phang lại, ông nín lặng day lưng đi qua phòng ăn. Thực đơn cho bữa chủ nhựt đặc biệt hơn ngày thường, nhưng mặt mày thuyền trưởng nhăn nhó giống như cái âm hộ bà già làm cho những người trong bàn ăn không còn lòng dạ nào thưởng thức món xúp gà, bít tết xốt tiêu xanh, sà lách trộn mayonaise, khoai tây chiên giòn và món kem dâu tráng miệng mà tôi mất công thực hiện hết cả buổi sáng. Vì miếng ăn gây lộn thậm chí đánh nhau trên tàu thỉnh thoảng cũng có, nhưng chuyện xảy ra với thuyền viên thì sẽ được im xuôi liền sau đó. Đằng này nó xảy ra với thuyền trưởng nên còn ầm ĩ, từ khôi hài cho tới lôi thôi.

Tưởng như vậy là yên nhưng không ngờ sau bữa ăn, ông hạch hỏi thằng Labang gì đó, nó đổ thừa thằng Erwin ăn bánh của ông. Thế rồi Erwin tức giận xách dao rượt Labang chạy lòng vòng ngoài boong, không nhờ thuyền phó can ngăn thì Labang đã lãnh một dao lòi phèo rồi. Bây giờ tới phiên ông Luis, không hiểu chuyện gì, nhưng tôi cũng hổng muốn nghe ba cái chuyện tầm phào, tôi nói:

– Ba cái chuyện ruồi bu đó đâu có dính dáng gì tới tui.

– Tao nghĩ mầy biết ai ăn bánh của nó chớ.

– Biết rồi sao, hổng biết rồi sao?

– Mầy không chỉ ra làm bây giờ nó nghi ngờ Viktor và Ivan ăn bánh.

– Rồi nó làm gì hai đứa?

– Bú cu tụi nó chớ làm gì.

– Ha ha... không ăn được bánh thì bú cu trừ, chuyện nầy cũng hổng dính dáng gì tới ông, bỏ phứt qua cho rồi.

Ông Luis vừa cười ha hả vừa đi vô bếp bấm nút ấm điện nấu nước, trong lúc chờ nước sôi ông day ngang báo cho tôi biết, tàu ghé Hamburg ông sẽ về.

– Ờ mấy tháng trời, chỉ chờ có ngày nầy, về đưa bà đi chơi đây đó cho khuây khoả.

– Tao không bao giờ đi chơi hết.

– Xứ ông có nhiều chỗ nghỉ ngơi lắm mà.

– Tao hổng thích chỗ đông người.

– Thì đi chỗ ít người, hơn nữa mùa nầy ở Tây Ban Nha đâu còn dân du lịch nữa.

Tự dưng ông nói một hơi:

– Tao rất ghét dân du lịch, nhứt là mấy tháng hè, tự nhiên cả đám xuống bãi biển lột quần, áo nằm phơi giống y như cá nược bị môi trường nước ô nhiễm chết nằm sắp lớp trên cát.

– Nếu ông không thích biển trần truồng thì tìm nơi có bận quần áo hoặc vô rừng, lên núi...

– Nhưng tao hổng thích đi.

Nhìn cái mặt đầy nhục dục của ông, vậy mà hễ mở miệng ra là giảng luân lý. Tôi không muốn nghe tiếp nên chận:

– Ô kê, ô kê, hổng thích thì thôi, nhưng ai xuống thay ông?

– Thằng In Đô khùng.

– In đô thì In đô còn In đô khùng nữa.

Định bỏ qua nhưng khi nghĩ tới lớp da sần sùi và trốc mốc như da rắn lột trên thân thể khô héo, mặt mũi tối hù của ông, tôi lắc đầu:

– Trên trời thì có thượng đế là người thông minh nhứt, còn dưới trần gian người thông minh nhứt là ai ông biết không?

– Ai?

– Là mấy người khùng.

Thấy nói một đàng, ông hiểu một nẻo nên tôi trớ sang đề tài khác:

– Đúng rồi, mầy cũng biết thằng Sidabalok không bình thường mà, thuyền phó kêu nó đục sét sơn boong tàu thì nó sơn container, kêu bắt thang hoa tiêu bên phải thì nó bắt bên trái...

Ông vừa kể xấu thằng Sidabalok vừa cười khằng khặc làm rung rinh cả hàm râu quai nón. Thật ra thì Sidabalok thiệt thà chớ không đần độn, chuyến trước nó mới tập sự lại không thông tiếng Anh, người ta kêu một đàng nó hiểu lầm rồi làm một nẻo. Là ma mới nên chưa thạo việc, chớ qua vài chuyến thì ai cũng như ai. Tôi cười châm chọc:

– A ha, một thằng khùng xuống thay cho ông già bệ rạc và lẩm cẩm thì có khác gì nhau.

Ông day ngang sừng sộ:

– Mầy là cái dương vật.

– Chỉ có những người ngu ngốc mới tự cao tự đại, coi thiên hạ là cái dương vật.

– Mầy ngu ngốc mới nói tao bệ rạc và lẩm cẩm.

– Ô kê, vậy ông là một ông già khoẻ mạnh và thông minh nhứt trần gian.

Nước sôi, ông chế nước pha trà, trong lúc ông cầm sợi giây giựt giựt cho trà mau tan và ngẫm nghĩ sao đó, chợt ông ngước lên nhìn tôi cự nự:

– Mầy nói xỏ tao hả.

– Nói xỏ ông làm gì, ông lên phòng soi gương lại cái bản mặt ông coi, nó tối như đêm không trăng, đã vậy mà cứ kiếm chuyện nói xấu tụi In Đô. Tui cho ông biết, ở bên In Đô rất nhiều phù thủy có ma thuật làm ra bùa ngải hại người và dược sĩ chế được thuốc cực độc có thể giết chết người trong tích tắt và còn có loại thuốc liệt dương nữa. Ông mà ăn nói không thận trọng có ngày bị họ cho ăn thuốc liệt dương thì ông với bà hết đường hưởng thụ.

– Ha ha.. asshole!

– Hết dương vật tới hậu môn, tui nói thiệt ông đừng buồn, ông mở miệng ra thì đã nghe mùi ống cống rồi, uống trà trái cây của thuyền trưởng tặng ông để cho cái miệng thúi được thơm tho.

Ông bưng tách trà vừa bước ra ngoài miệng vừa lẩm bẩm chưởi tục. Hơn hai mươi năm quen biết, tôi với ông san sẻ với nhau nhiều chuyện vui buồn, nhưng ít khi nào giữa tôi và ông có một cuộc chuyện trò nghe cho được thuận tai. Tuy nhiên hễ trên tàu có tin tức mới lạ hoặc có chuyện bực mình thì thế nào ông cũng tìm tôi để tâm sự.

Sau bảy giờ vượt một trăm hải lý, băng ngang kinh Kill, bây giờ tàu đã vào đập Brunsbutel.

 

Những ngày mùa hè vùng này có nhiều bầy chim nho nhỏ đủ màu sắc tản mác trên mấy tán rừng dọc theo hai bờ kinh để tìm ăn trái chín. Cuối thu chúng tụ tập lại từng bầy bay rợp bóng bên vàm kinh, chừng như muốn chuẩn bị cho một cuộc hành trình dài. Chắc có lẽ giờ nầy đàn chim nho nhỏ ấy đã bay hết về phương Nam tìm nắng ấm và trái ngọt cây lành. Không biết chúng có bị đàn chim bản địa kỳ thị rồi cắn mổ, chưởi bới nhau giống như loài người không. Nơi đây còn lại chim nhàn trắng, đẹp và hiền lành. Loài nhàn thích hợp với thời tiết bốn mùa và chịu được cảnh rừng cây trơ cành và băng, tuyết của mùa đông. Chúng ung dung tự tại bay trên mặt biển săn mồi lúc trời im gió. Mỗi khi mưa, giông không bay ra khơi săn mồi được, chúng tụ tập bên vàm sông và trong dòng kinh hoặc bay từng bầy theo sau lái con tàu. Loài chim nhàn rất tinh mắt, thấy tôi đem bánh mì ra boong, tức thì vài con dạn dĩ bay xà xuống thiệt nhanh, mổ lấy bánh trên tay tôi rồi tung cánh lên không trong nháy mắt. Tôi liệng bánh ra bao nhiêu chúng sớt hết bấy nhiêu, không rớt xuống nước một miếng. Ông Luis thấy vui mắt bèn đi tới xin vài lát bánh rồi bẻ ra từng miếng nhỏ liệng cho chim... Từ lúc tàu đậu cho tới tàu ra khỏi đập tôi với ông Luis cho bầy chim nhàn ăn hết hai ổ sandwiches .

Tàu chạy trên dòng sông Elbe, còn ba giờ đồng hồ nữa sẽ tới cảng Hamburg. Tôi với ông Luis đứng nhìn bầy nhàn bay theo sau lái và nhiều con tàu ngược xuôi trên dòng sông. Viên thợ máy áo quần bảnh bao từ trong đi ra đứng cạnh bên trông thảnh thơi lắm. Tôi hỏi:

– Hôm nay làm gì mà mầy ăn bận tươm tất quá vậy.

Miệng cười chua chát với vẻ khinh đời, hắn nói:

– Tàu ghé cảng tui về.

– Ủa, sao hông nghe nói.

– Công ty mới e mail cho tui hồi nãy.

– Ai xuống thay mầy vậy?

– Tên Ukrainia nào đó tui cũng hổng biết.

Ông Luis chen vào:

– Tương lai officers toàn là người Ukrainia.

Viên thợ máy đổi nét mặt nghiêm trọng:

– Thì vậy, tui về rồi máy móc sẽ hư hao và phòng máy sẽ lộn xộn hết cho mà coi.

Tôi cười nói:

– Hơi đâu mà lo, không có mầy tàu vẫn chạy mà.

Tên thợ máy quay đi, ông Luis le lưỡi và đưa ngón tay giữa theo sau lưng làm giấu tục. Tôi nói:

– Những người có thu nhập cao vẫn hay ganh tị và tự cao tự đại nhưng tư chất lại thấp hèn.

Ông cao giọng:

– Tao biết nhiều thuyền trưởng, thợ máy, thủy thủ đoàn lớp về hưu, lớp bịnh, lớp chết... nhưng tàu bè vẫn chạy ào ào đầy biển chớ có đậu lại ngày nào đâu. Nó là cái dương vật gì mà bày đặt làm phách.

Tôi nhìn ông cười tán đồng:

– Ha ha...Thú thật, quen biết nhau mấy chục năm, đây là lần đầu tiên nghe ông nói một câu thật là chí lý.

Nghe tôi khen ông ễnh cái ngực, hỉnh cái mũi ra chiều đắc ý. Tôi đưa mắt nhìn những con tàu ngược xuôi giữa dòng sông Elbe. Chợt nhiên tôi nghĩ tới biết bao con tàu và thủy thủ đoàn của hàng trăm năm về trước, những người hải hồ vì lý tưởng, nay hồn ở nơi đâu.

 

Stokholm, 28-01-2009
Nguyễn Lê Hồng Hưng

 


Cái Đình - 2009 .