Nguyên Trí – Hồ Thanh Trước


Miến Điện quốc gia Phật Giáo

mang nhiều sắc thái chánh trị phức tạp… và thiên tai động đất.

Trên bình diện chánh trị, từ sau vụ đảo chánh ngày 1 tháng 2 năm 2021, tình hình an ninh trên khắp Miến Điện trở nên đáng ngại. Sự gia tăng tình hình xung đột và các hành động bạo lực, cũng như tình hình kinh tế suy thoái, gây hậu quả nghiêm trọng cho an ninh trên toàn quốc và gây ra việc kém an toàn cho du khách. Đây là lý do tại sao mọi chuyến du lịch đến Miến Điện (Myanmar) đều không được khuyến khích. Từ ngày đó, mọi tổ chức du lịch, hành hương đều ngừng vì tình hình an ninh nội địa.

Trang sử dài và phức tạp của quốc gia này đã đưa đến những biến động chánh trị sẽ được diễn tả một cách sơ lược dưới đây.

Trên phương diện địa lý, quốc gia này nằm trên hai mảng lục địa, Ấn Độ và Á-Âu (Indian và Eurasian Tectonic Plates); hai mảng này trượt nhau độ 24mm mỗi năm nên thường gây ra các trận động đất trong quốc gia này. Có hơn mười bốn trận động đất có cường độ từ 6 Richter trở lên trong thế kỷ 20, bao gồm trận động đất ngày 13 tháng 4 năm 2016 có cường độ 6,9 Richter, gần Mandalay và trận động đất ngày 28 tháng 3 năm 2025 lên đến độ 7,7 Richter, gây lên những thiệt hại về sinh mạng và vật chất không thể diễn tả.

Tại thành phố lớn thứ hai của Miến Điện, Mandalay, gần tâm chấn động, trận động đất đã khiến các công trình kiến trúc, nhà dân cư, cầu và đường sá nứt nẻ, sụp đổ. Mandalay và Pagan là nơi có nhiều di tích lịch sử Phật Giáo bị thiệt hại không ít! Vài Stupa trong các chùa khắp nơi trong vùng động đất bị ngã đổ vì chấn động mạnh.

Trung tâm địa chấn Euro-Mediterranean Seismological Center (EMSC) xác nhận trận động đất này có cường độ 7,3 Richter. Tại thủ đô Naypyidaw của Myanmar, các con đường bị biến dạng. Nhiều nơi do độ rung cao và chấn động mạnh nên nhiều mảnh trần nhà rơi hoặc sụp đổ xuống, cầu giao thông trên sông đứt đoạn, gây thiệt hại lớn về sinh mạng.

Cung điện Mandalay đã bị phá hủy một phần. Được xây dựng vào năm 1857, công trình này là cung điện hoàng gia cuối cùng của chế độ quân chủ Miến Điện. Ngày nay, đây là điểm du lịch chính trong khu vực.

Cung điện Mandalay sau địa chấn tháng 3/2025. Ảnh: Myanmar Now

Vẫn biết rằng tánh vô thường của vạn vật là ‘Thành, Trụ, Hoại, Không’, nhưng khi xem tin tức về trận động đất 28-03-2025 này và sự thiệt hại về sinh mạng, tài sản, công trình kiến trúc di tích Phật giáo mà tôi đã được viếng thăm vào tháng 10 năm 2017, tôi không khỏi bàng hoàng xúc động, nên xin ghi lại vài kỷ niệm của chuyến hành hương.

Do phước duyên lành, chúng tôi được thăm viếng quốc gia này và các Phật tích vào tháng 10 năm 2017. Nền văn hóa Phật Giáo của Miến Điện là chủ đề quan trọng của bài tường thuật này.

Nguyện cho tình trạng biến động tại Miến Điện sớm lắng đọng, mọi hoạt động trở lại bình thường, hầu mọi dịch vụ du lịch hành hương được phát triển.

Sau khi viếng thăm, đảnh lễ Phật tích Tứ Động Tâm tại ấn Độ, chúng tôi lại ước nguyện được thăm viếng Miến Điện, một đất nước có truyền thống Phật Giáo Theravāda, hai lần tổ chức Kết Tập Kinh Điển, lần thứ 5 vào năm 1871 và lần thứ 6 năm 1954 với sự tham dự của chư tăngViệt Nam thuộc Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy do Hòa Thượng Bửu Chơn làm trưởng đoàn, điều này đã được ghi trên bảng kỷ niệm tại thạch động Mahapasana Guha (xin xem hình dưới đây), tôi sẽ trình bày rõ ở phần sau trong bài viết. Miến Điện cũng nơi tổ chức Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới lần thứ 3.

Ảnh tác giả

Khi viếng thăm Bồ Đề Đạo Tràng năm 2016, chúng tôi có thấy trụ đá phía đông cây Bồ Đề với hàng chữ bằng Ấn ngữ và Anh ngữ “Tuần lễ thứ 3 sau khi thành đạo, nơi đây Đức Phật đã gặp hai thương gia Miến Điện đến dâng thực phẩm cúng dường ngài, để tạ ơn Đức Phật tặng họ tám sợi tóc”. Về nước, họ dâng tóc Phật lên vị vua đương thời, được tiếp đón rất long trọng và được thờ tại chùa vàng Shwedagon ở Yangon và chùa Đá Vàng Golden Rock trên núi Kyaikhtiyo; đây cũng là những điểm chính của chuyến hành hương.

Tuy nhiên từ năm 1962 dưới sự lãnh đạo của một chế độ “quân sự chuyên chế”, du lịch bị hạn chế, hành hương di tích Phật Giáo có nhiều khó khăn. Đến năm 2011, chính phủ dân sự bắt đầu mở mang du lịch, và việc nhập cảnh thật sự dễ dàng sau khi Cộng Đồng Âu Châu và Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh phong tỏa vào năm 2012.

Muốn vào Miến Điện, phải qua Thái Lan, chúng tôi lại được biết thêm một quốc gia, nơi Phật Giáo được xếp vào hàng quốc giáo.

Đoàn hành hương quy tụ các đạo hữu đến từ nhiều quốc gia khác nhau, Bỉ, Đan Mạch, Đức, Hòa Lan, Nga, Pháp, Thụy Sĩ và Việt Nam và trên những chuyến bay khác nhau, nên không tránh được vài trở ngại nhỏ, như việc một đạo hữu Đan Mạch không được vào Miến Điện, vì passport không còn đủ hạn sáu tháng như quy định. Tuy nhiên nhờ có chư thiên hộ vệ mọi trở ngại rồi cũng được giải quyết tốt đẹp.

1. Thái Lan

Đến Bangkok, đoàn được anh Jaiphet, hướng dẫn viên người Thái nhưng nói thông thạo tiếng Pháp, tiếp đón và tôi được hân hạnh nhận “chức” thông dịch viên Pháp – Việt cho đoàn.

Theo chương trình, đoàn sẽ viếng thăm hoàng cung và chùa Wat Phra Kaew (Chùa Phật Ngọc) nằm trong khuôn viên hoàng cung, tuy nhiên vì giờ thăm hoàng cung rất giới hạn, và thời gian đoàn ở Thái Lan chỉ một ngày, nên chương trình được đổi sang viếng thăm các chùa lân cận, riêng tôi nhận thấy đây là duyên tốt đẹp, để viếng thăm các ngôi chùa Theravāda Thái.

Chùa Wat Pho

Chùa Wat Pho nằm trên tả ngạn (phía đông) dòng sông Cha Phraya chảy qua Bangkok. Theo lời tường thuật của anh Jaiphet, Wat Pho là một trong sáu ngôi chùa nổi tiếng nhất của vương quốc Thái Lan, ngôi chùa được xây dựng năm 1788 dưới triều vua Rama I, trên diện tích một ngôi chùa củ, và là nơi cất giữ một phần tro cốt của nhà vua, sau khi băng hà. Trong chùa có một pho tượng Phật trong tư thế nằm trước khi nhập Niết Bàn, với chiều dài khoảng 45m và cao 15m, nên được gọi là “Chùa Phật nằm”, lòng bàn chân tượng có 108 cảnh tiền thân Đức Phật, cẩn xa cừ. Ngoài ra trong khuông viên chùa là nơi sưu tập quan trọng các tượng Phật. Chùa Wat Pho được xem là trung tâm giáo dục công cộng đầu tiên tại Thái Lan và là một ngôi trường y học Thái, cũng như là cái nôi của ngành massage Thái.

Pho tượng Phật nằm trong chùa Wat Pho. Ảnh tác giả

Chùa Wat Arun

Chùa Wat Arun (Temple of Dawn) mang tên một vị thần trong Ấn Độ Giáo, thần Aruna, (thần Rạng Đông hay Bình Minh) nằm trên hữu ngạn (phía tây) dòng sông Cha Phraya. Ngôi chùa đã được xây từ trước, thời vương quốc Ayutthaya, vương quốc Thái cổ (1351 - 1767) và được xây dựng lại năm 1792 dưới triều vua Rama II với ngọn stûpa cao trên 80m. Chùa Wat Arun là nơi tro cốt vua Rama II sau khi băng hà được giữ tại 'ubosot' (điện thờ) trong chùa.

Chùa Wat Arun. Ảnh tác giả

2. Miến Điện (Myanmar)

Rời Thái Lan, đoàn đáp máy bay đi Mandalay, thành phố ở trung tâm Miến Điện, lớn thứ hai, sau Yangon. Mandalay là thủ đô của vương quốc Miến Điện 1859 - 1885 dưới triều đại vua Mindon Min và cãng là nơi đã tổ chức Kết Tập Kinh Điển lần thứ 5 vào năm 1871; việc này tôi sẽ tuần tự lược thuật trong bài.

Đến Mandalay, đoàn hành hương được anh hướng dẫn viên Nyi Nyi Zaw, Licensed Tour Guide, thông thạo Anh ngữ, mặc Longyi (y phục cổ truyền Miến Điện) tiếp đón nồng nhiệt và anh là người sẽ hướng dẫn đoàn suốt thời gian lưu lại Miến Điện. Một lần nữa tôi được hân hạnh đảm nhiệm “phụ thông dịch”, những khi thầy Pháp Quang “chánh thông dịch” cần dưỡng sức.

Phật Giáo Theravāda Miến Điện

89% dân số Miến Điện theo Phật Giáo Nguyên Thủy Theravāda, do đó, Miến Điện là quốc gia Phật Giáo có tỷ lệ cao nhất về số tu sĩ trên dân số và tỷ lệ cao nhất kinh phí dành cho tôn giáo.

Đại đa số Phật tử Miến Điện thuộc các sắc tộc, "Shan", "Rakhine" (Arakan), "Mon", "Kayin" (Karen) và người Miến Điện gốc Trung Hoa có địa vị trong xã hội.

Tại Miến Điện, Phật giáo Theravāda thường được thực hành kết hợp với sự thờ cúng thần Nat (những vị thần trong tín ngưỡng Miến Điện). Các tu sĩ Phật Giáo, được gọi chung là Tăng Già (Sangha) rất được tôn kính trong xã hội Miến Điện.

Tầm quan trọng của Phật Giáo trong lịch sử Miến Điện được biểu hiện qua các chùa, và thường được gọi là đất nước của các ngôi chùa và tu viện; vì vậy mục đích chính của chuyến hành hương là viếng thăm các ngôi chùa thường được biết đến trên đất nước này.

Ngôi chùa quan trọng nhất nước, chùa Shwedagon (chùa Vàng) ở Yangon đã trở nên một huyền thoại trong truyền thuyết nhân gian, tượng trưng cho niềm tin của phật tử qua nhiều thế hệ. Mỗi làng ở Miến Điện có một ngôi chùa nơi thờ tự và một tu viện nơi giáo dục tôn giáo truyền thống; văn hóa Miến Điện chịu ảnh hưởng rất lớn của Phật giáo.

Có nhiều lễ hội Miến Điện trong suốt năm, hầu hết đều liên quan đến Phật giáo. Năm mới của Miến Điện, "Thingyan", có nguồn gốc từ truyền thống Ấn Độ giáo và cũng được biết đến như Lễ Hội Nước, nhưng cũng là thời điểm nhiều người Miến Điện trẻ tuổi thực hành lễ "Shinbyu", một nghi lễ đặc biệt, người thanh niên vào tu trong tu viện một thời gian ngắn.

Tu viện Shwenandaw

Điểm viếng thăm đầu tiên tại Mandalay là tu viện Shwenandaw, tu viện được xây hoàn toàn bằng gỗ Teak, với những nét chạm trổ công phu theo nghệ thuật kiến trúc Miến Điện thế kỷ 19. Ngôi tu viện này trước kia nằm trong khuôn viên hoàng cung của vua Mindon. Sau đó được dời khỏi hoàng cung và xây lại thành tu viện tưởng niệm vua Mindon nơi vị trí hiện tại. Điểm đặc biệt cần lưu ý khi viếng các chùa, di tích Phật Giáo tại Miến Điện, để tỏ lòng tôn trọng, khách hành hương phải cởi giày, và cởi cả vớ, hoàn toàn chân không, và mọi nơi đều rất sạch sẽ.

Tu viện Shwenandaw (trái) và một bức tượng được chạm khắc trên gỗ. Ảnh tác giả

Chùa Kuthodaw

Rời tu viện Shwenandaw, đoàn đi thăm chùa Kuthodaw, ngôi chùa này mang tính cách quan trọng trong lịch sử Phật Giáo; nơi đây năm 1871, đã tổ chức kết tập kinh điển lần thứ 5, dưới triều đại vua Mindon. Ðặc biệt sau kỳ kết tập này, tất cả Tam Tạng Kinh Điển được viết trên 729 phiến đá cẩm thạch, mỗi phiến đá cao hơn 1,5m và rộng khoảng 1m, khắc chữ đầy cả hai mặt.

Kinh tạng được khắc trên 520 phiến đá, Luật tạng gồm có 101 phiến đá, và Luận tạng được tạc trên 108 phiến đá. Tổng cộng 3 tạng là 729 phiến đá. Mỗi phiến đá được bảo vệ bởi một stûpa nhỏ bằng vôi trắng với dòng chữ ghi chú. Ở trung tâm là một tháp bằng vàng cao 57m, được xây dựng theo mô hình của ngôi chùa Shwezigon của Nyanung U (gần Bagan).

Tháp vàng, một stûpa và một phiến đá khắc Tam Tạng Kinh Điển. Ảnh tác giả

Đồi Mandalay và chùa Sutaungpyei

Sau đó, đoàn viếng thăm ngọn đồi Mandalay (Mandalay Hill). Vì đường lên đồi nhỏ hẹp, phải dùng xe nhỏ, mỗi xe 10 người. Đường chạy hai chiều, xe bốn bánh lẫn xe hai bánh, tôi nhận ra rằng người Miến Điện rất hòa nhã, thường nhường nhịn nhau trên đường, phải chăng Phật Giáo đã thấm nhuần trong cách cư xử hàng ngày.

Trên đỉnh đồi là ngôi chùa Sutaungpyei ('Cầu Xin – Toại Nguyện'), khách hành hương có thể lên chùa bằng bốn đường thang bộ hoặc thang cuốn tự động hay thang máy.

Từ trên sân chùa, khách hành hương được ngắm toàn cảnh cố đô Mandalay bên dưới, hoàng hôn trên sông Irrawaddy và các stûpa xung quanh.

Ảnh tác giả    

Kính lễ tượng Phật chùa Mahamuni (chùa Maha Myat) ở Mandalay (Theo hình ảnh trên truyền hình RTBF ngôi chùa này có một phần hư hại trong trận động đất 28-03-2025)

Tượng Phật chùa Mahamuni, một địa điểm hành hương quan trọng hàng nhì ở Miến Điện, sau chùa Shwedagon ở Yangon. Tượng Mahamuni được đặt trong đền thờ với mái hình nón cao 7 từng. Tượng có chiều cao khoảng 4m, bằng đồng với trọng lượng khoảng 6 tấn, được dát nhiều lớp vàng qua nhiều thế kỷ, ngày nay đạt tới độ dầy 15cm và hằng ngày vẫn được dát thêm 60 đến 80 gram vàng bởi các khách hành hương nam, vì nữ giới không được bước lên điện thờ để dát vàng lên tượng!

Theo lời giảng của thầy trưởng đoàn, mỗi sáng vào lúc 4 giờ, một vị cao tăng đến đánh răng, rửa mặt cho tượng và cúng dường trong một nghi lễ trang nghiêm. Rất tiếc chúng tôi không tham dự lễ này được.

Chùa Mahamuni và tượng Phật trong chùa. Ảnh tác giả

Bữa ngọ trai của chư Tăng tại tu viện Maha Gandayon tại Amarapura

Theo chương trình, đoàn đến thăm và cúng dường trai tăng tại tu viện Maha Gandayon, một tu viện nghiêm khắc và lớn nhất của nền văn hóa Phật Giáo Miến Điện. Đặc điểm về y phục, chư ni Miến Điện đắp y trắng hồng, khác hẳn y lam của chư ni Việt Nam.

Ngọ trai tại tu viện Maha Gandayon. Ảnh tác giả

Bangan

Rời Mandalay đoàn lên đường đi Bangan, đoạn đường dài 180 km, khoảng 4 giờ xe, anh hướng dẫn viên Nyi Nyi đã trình diễn cách quấn Longyi, y phục cổ truyền của phái nam và nữ Miến Điện, rất hào hứng, giúp mọi người bớt mỏi mệt.

Bangan là một khu khảo cổ học Phật Giáo với diện tích khoảng 50km2, trong địa hạt Mandalay, trong vùng đồng bằng trung tâm Miến Điện, bên trái bờ sông Irrawaddy, giòng sông chính của Miến Điện. Bangan từng là thủ đô của vương quốc Pagan, thời kỳ vàng son từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 13, nơi đây có hơn 10.000 ngôi chùa Phật Giáo, ngày nay chỉ còn lại khoảng 2.000 ngôi chùa lớn nhỏ. Trận động đất 25-08-2016 đã gây thiệt hại không nhỏ cho các ngôi đền vùng này, và ngôi đền Pya Tha Gyi. Tuy nhiên con người có thể là một hiểm nguy cho vùng này! Theo lời anh hướng dẫn viên Nyi Nyi, một nhân vật giàu có, nhiều thế lực với chính phủ quân sự, có ý định thực hiện trong khu khảo cổ này một khu hotel resort rộng lớn, mong rằng điều này không thành hiện thực vì sẽ làm mất vẻ trang nghiêm, yên tịnh ngàn xưa trong vùng.

Các ngôi đền vùng Bangan, như đền Thatbyinnyu xây năm 1144, đền Dhammayangyi xây năm 1167, đền Sulamani xây năm 1183 (với những bức tranh tuyệt đẹp miêu tả cảnh trận chiến, cảnh săn bắn của hoàng gia v.v...), và đền Wetgyi Inn Gubyaukgyi đầu thế kỷ 13, đều có những stûpa theo kiến trúc Ấn Độ, trong các đền có những bức tranh tường khá đẹp miêu tả cảnh trong kinh Jātaka (kể lại những tiền kiếp của Đức Phật). Các ngôi đền nơi đây đều có kiến trúc như một thành lũy chiến đấu với tường thật dầy, các hành lang dài mang tánh cách bí hiểm; vì theo lời anh Nyi Nyi, thế kỷ 13, Miến Điện chiến đấu chống quân Mông Cổ (như đời nhà Trần vào thế kỷ 13 ở Việt Nam), tiếp theo là chiến tranh với các nước lân cận cho đến thế kỷ16, các ngôi đền này được sử dụng như nơi trú ẩn để chống giặc.

Một ngôi đền ở Bangan và tranh vẽ trên trần. Ảnh tác giả

Kế tiếp đoàn đến thăm đền Pya Tha Gyi, từ trên sân thượng, ngắm toàn cảnh Bangan, cùng một ngôi đền đang được sửa chữa, sau trận động đất 2016.

Đất nước Miến Điện nằm trên vùng động đất thường xuyên, gây thiệt hại không nhỏ về sinh mạng và tài sản. Các di tích lịch sử và đền chùa bị thiệt hại không ít; người dân tuy không giàu nhưng họ vẫn cố gắng xây dựng lại đổ vỡ do thiên tai. Trong khi đó chính quyền quân sự, dường như phó mặc cho người dân tự đối mặt với thiên tai, có lẽ họ chỉ chú trọng vấn đề duy trì quyền lực!

Chùa Shwezigon, ngọn stûpa của chùa được xây dựng năm 1059 theo mẫu stûpa Lawkananda được xây dựng trước, và là một mô hình cho nhiều tháp kiểu Miến Điện khác. Stûpa chùa Shwezigon có hình chuông và nằm trên ba bậc thang bằng gạch được trang trí bằng những bảng điêu khắc cảnh tượng trong kinh Jātaka (kể lại những tiền kiếp của Đức Phật). Tất cả xung quanh là các đền thờ nhỏ và hình của 37 Nats (những vị thần trong tín ngưỡng Miến Điện).

Chùa Shwezigon. Ảnh tác giả

Đền Ananda

Đền Ananda là một trong những di tích đẹp nhất, lớn nhất và được bảo tồn tốt nhất ở Bangan. Ngôi đền tượng trưng cho sự hiểu biết vô hạn của Đức Phật. Ngọn tháp chính, giữa đền được dát vàng.

Bên trong ngọn tháp có bốn tượng Phật đứng, cao 10m. Chỉ có pho tượng phía Nam là nguyên bản, ba pho tượng kia được thực hiện theo nguyên bản, sau khi bị hư hại trong các trận động đất. Pho tượng cổ phía nam có đặc điểm, tùy theo vị trí người đứng nhìn xa hay gần chân tượng, sẽ nhìn thấy gương mặt pho tượng mỉm cười hay nghiêm khắc.

Ngôi đền Ananda là viên ngọc quý của kiến trúc Miến Điện, và là một trong những địa điểm chính của chuyến hành hương.

Đền Ananda và tượng Phật trong đền. Ảnh tác giả

Hồ Inle, các tu viện In Dein, chùa Phaung Daw Oo, tu viện Nga Phe Kyaung bên bờ hồ

Hồ Inle nước ngọt trên vùng núi cao độ 880m, chiều dài 22km, rộng 10km, độ sâu trung bình 2,10m. Trong hồ có nhiều loại ốc và cá đặc biệt, hoa Lục Bình trên hồ rất đẹp. Hồ Inle được Unesco công nhận là khu bảo vệ môi sinh (Man and the Biosphere Programme) vào năm 2015. Quanh hồ có bốn thành phố và rất nhiều làng nhỏ đền, chùa. Dân chài lưới trên hồ có một cách chèo thuyền duy nhất, một chân đứng trên sàn thuyền, một chân quấn quanh mái chèo; với tư thế này họ có thể nhìn rõ mặt nước bị bao phủ bởi các loại cây cỏ mọc trên nước.

Ảnh tác giả

Tu viện In Dein, nằm trong đất liền, trên bờ hồ Inle. Để đến được tu viện này, mọi người phải đi theo một hành lang dài có mái che bao phủ và dần dần leo lên đến lối vào chính của ngôi chùa cạnh một khu vực có 10.000 stûpa được xây dựng qua sự cúng dường của phật tử khắp nơi. Theo lời anh Nyi Nyi, tùy theo khả năng của người cúng dường, các stûpa lớn nhỏ không đều, nhưng ai cũng muốn stûpa mình cúng dường to đẹp hơn của người khác.

Tu viện In Dein. Ảnh tác giả

Chùa Phaung Daw Oo,

Chùa Phaung Daw Oo nằm trên bờ hồ Inle, trong chánh điện có năm tượng Phật nhỏ được dát bằng vàng lá, qua nhiều năm, nay dầy đến mức không còn nhận biết hình dạng ban đầu nữa. Trong những bức ảnh cũ được trưng bày trên các bức tường của chùa, cho thấy những bức tượng lúc ban đầu, tượng cao từ 23 đến 46 cm. Theo truyền thuyết, khi vua Alaungsithu (1112-1167) dạo chơi trên hồ, một vị hoàng tử nhỏ đã rơi xuống nước và được chư thiên cứu. Để tạ ơn, nhà vua cho tạc năm bức tượng này và thờ ở chùa Phaung Daw Oo cho đến nay.

Chùa được mở cho tất cả mọi người, nhưng theo truyền thống Theravāda, chỉ có nam giới mới có quyền chạm vào bức tượng để dát vàng.

Hàng năm, vào khoảng tháng 9, tháng 10, năm bức tượng được đưa lên một chiếc thuyền có hình dáng giống thuyền hoàng gia trước đây, và rước đến từng làng dọc theo bờ hồ Inle. Theo lời anh Nyi Nyi kể với tôi, năm 1965, thuyền rước năm bức tượng bị tai nạn và chìm; người dân chỉ vớt được bốn tượng! Khi về đến chùa thì thấy bức tượng thứ năm đã tự trở về chùa; mọi người cho rằng bức tượng này không muốn rời chùa, nên từ đó chỉ có bốn tượng được rước lễ hằng năm.

Du khách viếng chùa Phaung Daw Oo đang dát vàng lên tượng Phật. Ảnh tác giả

Tu viện Nga Phe Kyaung

Tu viện Nga Phe Kyaung là một tu viện bằng gỗ được xây dựng năm 1850, trên những cây cột, trên mặt hồ Inle. Phòng thiền rộng mở cho du khách, có hơn 20 bàn thờ, mỗi phòng đều có một tượng Phật khác biệt qua các thời đại Shan, Tây Tạng, Bagan và Ava, được đặt trên các bàn thờ trang trí rất đẹp .

Theo lời anh Nyi Nyi, hướng dẫn viên, có những tượng được làm bằng tre, sơn mài và gỗ ép.

Ảnh tác giá

Naypyidaw, thủ đô mới của Liên bang Myanmar và chùa Uppatasanti

Rời hồ Inle với các ngôi chùa bên hồ, đoàn đi thăm Naypvidaw, thủ đô mới của Miến Điện khánh thành vào tháng 11-2005, và chính thức hóa năm 2006, khoảng 320km về hướng bắc thủ đô cũ Yangon.

Thủ đô mới này là một đề tài làm tốn rất nhiều giấy mực và dĩ nhiên ngân sách quốc gia, nhưng để hiểu rõ vấn đề, anh hướng dẫn viên Nyi Nyi có trao đổi với tôi như sau về lịch sử Miến Điện. Liên Bang Miến Điện gồm bảy tiểu bang, mỗi tiểu bang thuộc một trong bảy sắc tộc chính của Miến Điện, ngoài ra còn có hàng chục sắc tộc thiểu số :

Và bảy vùng:

Là một quốc gia có cấu trúc tương đối phức tạp, thỉnh thoảng có những xung đột giữa các sắc tộc sau khi độc lập vào năm 1948, có những tiểu bang có lực lượng quân sự riêng. Vì lý do này một chính phủ quân sự chuyên chế được thành lập để duy trì an ninh!

Trong cùng thời điểm của chuyến hành hương này vấn đề dân Rohingyas, một sắc tộc thiểu số theo Hồi Giáo. Những người Hồi giáo Miến Điện này (khoảng 800.000 người) sống ở các thị trấn Maungdaw và Buthidaung, phía bắc tiểu bang Rakhine nơi họ chiếm 93% dân số trước các sự kiện năm 2017. Tập trung đông đúc trong các trại, họ được coi là công dân thứ cấp. Kể từ năm 2016, khoảng một triệu người Hồi giáo Miến Điện đã phải chạy trốn sang nước láng giềng Bangladesh, vì bị chính quyền đẩy ra khỏi nơi họ đã sinh sống qua bao thế hệ, gây nên chấn động lớn trên truyền thông quốc tế, và không ai biết được kết cuộc sẽ đi về đâu!

Thấy anh hướng dẫn viên Nyi Nyi thân thiện với tôi, bà xã tôi muốn tôi hỏi anh về vấn đề Rohingyas. Tôi thấy việc này quá phức tạp và tế nhị nên đành thôi, không hỏi anh.

Thủ đô Naypvidaw được thành lập ở một vùng hoang vắng, không dân cư; thiết kế thủ đô Naypyidaw không là một thành phố, nhưng là một loạt các khu vực cô lập, nằm rải rác trên một diện tích khoãng 6.000 đến 7.000km2. Các bộ trong chính phủ được xây trên một địa bàn rộng rãi và chỉ có thể thông thương bằng các đại lộ rộng rãi, với 10 băng giao thông hai chiều, dưới sự canh gác, kiểm soát nghiêm ngặt. Các đại lộ rộng rãi này, vắng người và vắng cả xe cộ. Dọc theo các đại lộ là các hotel resort sang trọng nhưng cũng vắng khách.

Tôi xin phép được nhắc qua về luật giao thông tại Miến Điện. Là một cựu thuộc địa của Anh quốc, nhưng xe cộ lại lưu thông bên tay phải, không như các quốc gia thuộc khối Commonwealth, vì năm 1970 chánh quyền quân sự đã đổi luật giao thông từ trái sang phải.

Khu quân sự là một khu cô lập trong một thủ đô cô lập, cấm tất cả, ngoại trừ các sĩ quan cao cấp nhất.

Trên phương diện địa lý Naypyidaw nằm ở giữa Miến Điện, xa biển, một cách phòng thủ tốt nhất nếu có ngoại xâm; đối nội, giữa các vùng và tiểu bang, để dễ kiểm soát. Tóm lại theo lời anh Nyi Nyi, thủ đô này chỉ có lợi ích cho chính quyền quân sự, không mang lại một lợi ích gì cho người dân.

Khắp các nơi đoàn chúng tôi viếng thăm, thành thị hay thôn quê, đều không thấy sự phát triển kinh tế, không thấy khu kỹ nghệ. Hệ thống hỏa xa rất xưa cũ, đa số từ thời Anh quốc còn cai trị Miến Điện, quốc lộ chật hẹp, giao thông thiếu an toàn, nhưng nhờ sự dung hòa của người dân, rất ít tai nạn.

Đa số người dân sống bằng nông nghiệp thô sơ, tiểu công nghệ, tiểu thương v.v... Chúng tôi được viếng thăm một cơ sở thủ công nghệ làm đường ‘Thốt nốt’ (đường chế biết từ cây Thốt nốt) và cất rượu với “alambic” bằng hai cái nồi đất úp lên nhau như ở Việt Nam. Đúng là ‘tư tưởng lớn gặp nhau’.

Trái Thốt nốt (trái) và xay ngũ cốc nấu rượu (phải). Ảnh tác giả

Về giáo dục, theo lời anh Nyi Nyi Zaw, cưỡng bách giáo dục ở Miến Điện chỉ đến hết bậc tiểu học (khoảng 9 tuổi), trong khi tiêu chuẩn quốc tế là hết trung học đệ nhất cấp (khoảng 15 tuổi) và chỉ có 8% dân số Miến Điện có trình độ đại học! Tuy vậy Miến Điện đã sinh ra một nhân vật xuất sắc, ông U Thant, từng là Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, hai nhiệm kỳ từ 1961 đến 1971. Ngân sách quốc gia hàng năm dành cho giáo dục chỉ đạt 1,2%. Tuy nhiên, riêng tôi nhận thấy rằng người Miến Điện tương đối thành thật và hiền hòa, phải chăng Phật Giáo đã thấm nhuần trong tư tưởng và đời sống người dân.

Chùa Uppatasanti

Ngôi chùa của thủ đô mới, được khởi công xây dựng năm 2006 và hoàn thành năm 2009 theo mẫu chùa Shwedagon ở Yangon.

Mỗi quốc gia Phật Giáo tự chọn cho mình một phương hướng tu tập, Nhật Bổn với Bát Nhã Tâm Kinh và Miến Điện với Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, do đó trong chánh điện chùa Uppatasanti, Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo được viết bằng nhiều thứ tiếng trên tường.

Ảnh tác giả

Bago

Sau khi rời Naypyidaw, đoàn lên đường đi thăm thành phố Bago, trước đây có tên là Pegu cố đô của người Mon, một sắc dân trong Liên Bang Miến Điện. Tại Bago đoàn viếng thăm ngôi chùa Shwemawdaw.

Chùa Shwemawdaw

Shwemawdaw thường được gọi là đền Golden God, cao 114m, Shwemadaw giữ kỷ lục về ngôi chùa cao nhất trong nước, mặc dù chùa Shwedagon ở Yangon thường được cho là chùa cao nhất ở Miến Điện, 98m. Shwemadaw, cùng với Shwedagon và Kyaiktiyo, là những ngôi chùa nổi tiếng vương quốc Mon, một vương quốc xưa ở Miến Điện.

Ngôi chùa này được xây vào thế kỷ thứ 10 và là nơi cất giữ các sợi tóc Phật. Ngôi chùa bị hư hại trong các vụ động đất, vụ động đất năm 1917 gây sụp đổ stûpa, tuy ngã xuống nhưng không vỡ nát, mọi người cho là sự kỳ diệu, ngày nay phần stûpa này vẫn được trưng bày cạnh stûpa mới.

Chùa Shwemawdaw. Ảnh tác giả

Tượng Phật Shwethalyaung

Tượng Phật, có chiều dài 55 mét và chiều cao 16 mét, được cho là đã được xây dựng vào năm 994, dưới thời trị vì của vua Mon Migadepa. Lạc mất khi Pegu bị tàn phá trong chiến tranh 1757. Năm 1880, tượng Phật Shwethalyaung được tìm thấy dưới lớp cây rừng che phủ và được xây dựng lại như ngày nay. Phía sau bức tượng được trang trí các hình ảnh về tiền kiếp của Phật.

Ảnh tác giả

Kyaik Pun

Một ngôi chùa có thể nhìn thấy từ xa, với bốn vị Phật quay lưng vào nhau, cao 20 mét, mặt hướng về bốn hướng chánh. Tượng rất xưa nhưng được sơn màu rất đẹp, đặc biệt các móng tay của tượng được tạo bằng những tấm kiếng nhỏ (mosaic), rất công phu và tinh vi.

nh tác giả

Cung điện Kanbawzathadi

Cung điện Kanbawzathadi được xây dựng dưới triều vua Bayinnaung năm 1556. Cung điện này bị hỏa thiêu vào năm 1599 trong chiến tranh với đạo quân Bồ Đào Nha. Cung điện này đã chìm trong quên lãng từ thế kỹ 16 và được xây dựng lại vào cuối thế kỷ 20. Các công việc khai quật bắt đầu vào năm 1990. Sáu gò đất đã được khai quật, và tìm thấy nền móng của một số tòa nhà cung điện, và các cột trụ bằng gỗ tếch được sử dụng để xây dựng cung điện vào thế kỷ 16, nhiều cột trong số đó được ghi chú bằng chữ Mon, cũng như gần 2.000 tượng Phật. Anh Nyi Nyi cho biết, thời kỳ vàng son, cung điện có tám ngai vàng mang tên tám con vật biểu tượng trong tử vi Miến Điện. Tử vi Miến Điện không tính theo năm mà theo ngày, bảy con vật cho bảy ngày trong tuần, riêng ngày thứ tư được chia làm hai, sáng, chiều và có hai con vật biểu tượng : thứ hai cọp, thứ ba sư tử, sáng thứ tư voi có ngà, chiều thứ tư voi không ngà, thứ năm chuột, thứ sáu guinea pig (cochon d'inde), thứ bảy rồng và chúa nhật chim Garuda (một loài chim trong thần thoại Miến Điện).

Trong cung điện Kanbawzathadi ngày nay có một ngai vàng mang biểu tượng “Sư tử”, được thực hiện theo mẫu xưa; nguyên bản được trưng bày trong viện bảo tàng quốc gia tại Yangon.

Cung điện Kanbawzathadi, trái (ảnh tài liệu) và ngai vàng trong cung (ảnh tác giả)

Chùa Kyaiktiyo

Chùa Kyaiktiyo nằm trên đỉnh núi Kyaiktiyo, với cao độ 1.100m, từ làng Kinpun dùng xe vận tải đặc biệt để lên núi, vì đường khá hiểm trở. Đây là ngôi chùa nhỏ với chiều cao 7,3m được xây dựng trên đỉnh của một tảng đá granite phủ đầy lá vàng dán bởi các phật tử nên còn được gọi là Golden Rock là một địa điểm hành hương Phật giáo quan trọng thứ ba của Miến Điện sau Chùa Shwedagon và Chùa Mahamuni

Theo truyền thuyết, Golden Rock là nơi cất giữ một sợi tóc của Đức Phật, nhờ đó sự thăng bằng của Golden Rock dường như vượt ra ngoài tất cả nguyên tắc vật lý học. Một truyền thuyết khác kể rằng, Đức Phật đã tặng sợi tóc của ngài cho một thiền sư, thiền sư trao tóc Phật lại cho nhà vua với nguyện vọng đặt vào một hòn đá có hình dáng như đầu thiền sư. Chư thiên đã giúp nhà vua và đặt hòn đá vào vị trí hiện tại

Phụ nữ không được phép vào bên trong khu vực Golden Rock, một nhân viên canh chừng lối vào có cổng rào, phụ nữ chỉ được phép ở ban công ngoài và sân dưới của Golden Rock.

Ảnh tác giả

Thạch động Mahapasana Guha

Thạch động Mahapasana Guha, nằm trong thị trấn Mayangone ở phía bắc Yangon, được xây theo mô hình của thạch động Sattapanna ở Ấn Độ nơi Kết Tập Kinh Điển lần thứ 1, trong khuôn viên chùa Kaba Aye, năm 1952 để làm nơi tổ chức Kết Tập Kinh Điển lần thứ 6 vào ngày 17-05-1954. Lần kết tập này có mời đại diện tám quốc gia Phật giáo Nam truyền đến tham dự, trong đó có Việt Nam. Phái đoàn Việt Nam do Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam tổ chức, vị trưởng đoàn là Hòa thượng Bửu Chơn.

Thạch động Mahapasana Guha cũng là nơi hằng năm có cuộc thi tuyển chọn người làu thông kinh điển. Theo lời anh Nyi Nyi cho đến nay chỉ có 12 vị đạt được kết quả của cuộc thi tuyển thâm sâu này.

Cửa vào thạch động Mahapasana Guha. Bên trong với hàng ghế dành riêng cho các vị chủ lễ
và hàng ghế các phái đoàn tham dự. Ảnh tác giả

Chùa Shwedagon (Chùa Vàng) tại Yangon

(Dịch từ tài liệu anh ngữ do anh Nyi Nyi tặng)

Năm Maha Sakarit 103 (khoảng năm 588 TCN) Đức Phật Gautama (Phật Thích Ca) đã đạt được Giác ngộ và trong bảy tuần đầu, khi Ngài thiền định ở bảy nơi quanh cây Bồ Đề; vào tuần lễ thứ 3, có hai người thương buôn Miến Điện, Taphussa và Ballika, đã cúng dường thức ăn lên Đức Phật, và nhận được tám sợi tóc từ Ngài như là một phước lành, họ quay trở lại Okkalapa, nơi đây họ đã được chào đón bởi đông đảo quần thần và dân chúng do vua Okkalapa dẫn đầu.

Vua Okkalapa và những người phụ tá của ông đã kính cẩn cất giữ tóc của đức Phật cùng với các bảo vật di tích của ba vị cổ Phật trước Ngài... chiếc gậy của Đức Phật Kakusanda (Phật Câu Lưu Tôn), bộ lọc nước của đức Phật Kawnagamana (Koṇāgamana – Phật Câu Na Hàm) và chiếc y của đức Phật Kassapa (Phật Ca Diếp), trong tháp với chiều cao 66 feet (20,1m). Bởi tháp chứa đựng các bảo vật di tích của bốn vị Phật đã đạt được Giác ngộ, nên được gọi là Shwedagon, Reliquary of Four (Bảo vật di tích của bốn vị Phật).

Tượng các vị cổ Phật thờ tại chùa Shwedagon tại Yangon (ảnh tài liệu):
Từ trái sang phải: Kakusanda Buddha (Phật Câu Lưu Tôn), Kawnagammana Buddha
(Phật Câu Na Hàm), Kassapa Budhha (Phật Ca Diếp)

Từ năm 588 TCN đến thế kỷ 14, Shwedagon được duy trì bởi 32 vị vua của triều đại Okkalapa và từ 1372 bởi các vị vua Banya U, Banyanyan, Banyagyandaw và những vị vua khác.

Vào năm 1453, khi Nữ hoàng Shin Saw Pu lên ngôi, bà đã nâng tháp lên đến độ cao 302 feet (92m) và năm 1774, vua Sinbyushin đã xây dựng lại, và nâng lên cao độ 326 feet (99,36m) như ngày nay.

Chùa Shwedagon là nơi đoàn chúng tôi thăm viếng sau cùng, trước khi rời Miến Điện với nhiều luyến tiếc vì thời gian hạn hẹp, không thể xem rõ chi tiết từng nơi. Không biết còn có duyên trở lại các nơi này hay không, nhưng dù sao chuyến hành hương này củng giúp chúng tôi mở rộng tầm mắt và học hỏi nhiều điều hữu ích.

Chùa Shwedagon (Chùa Vàng), ảnh tác giả; và chi tiết cấu trúc chùa, ảnh tài liệu

Rời Miến Điện với nhiều nuối tiếc vì còn nhiều điều chưa được biết. Mong có được Phước duyên viếng thăm đất nước này một lần khác trong thanh bình an lạc.

Đoàn chúng tôi trở lại Thái Lan để chờ các chuyến bay về lại Âu châu, nhân dịp này đoàn chúng tôi được đi thăm viếng cố đô Thái Lan, Ayutthaya.

Ayutthaya

(viết theo lời giải thích của anh hướng dẫn viên du lịch)

Ayutthaya còn được gọi là Phra Nakhon Si Ayutthaya, là thủ phủ của tỉnh Ayutthaya ở Thái Lan, được thành lập vào năm 1350 bởi vua U-Thong (Ramathibodi I), nó đã trở thành thủ đô của Vương quốc Ayutthaya, còn được gọi là Siam (Xiêm La) vào thế kỷ XVII và XVIII. Ayutthaya, từng là một trong những thành phố lớn nhất trên thế giới, với dân số gần một triệu người, bị đội quân Miến Điện thiêu hủy vào năm 1767, và mất đi địa vị thủ đô, để nhường lại cho một thủ đô mới, Bangkok. Ngày nay Ayutthaya được biết đến với những di tích đền thờ trong một công viên lịch sử được liệt kê là Di sản Thế giới của UNESCO.

Anh hướng dẫn viên kể, trong chiến tranh 1767, đạo quân Miến Điện đã phóng hỏa thiêu tất cả cung điện, ngày nay chỉ còn lại bãi đất trống và vài vết tích nền móng cũ. Nhất là hỏa thiêu ngôi chùa nơi có tượng Phật mạ vàng cao 16m, và lấy đi số lượng vàng thu được!

Mô hình cung điện Ayutthaya xưa, nay chỉ còn tượng Phật mạ vàng đã bị thiêu hủy (ảnh tác giả);
Các ngọn stûpa nơi còn lại bãi đất trống (ảnh tác giả)

Đức Phật đã dạy tất cả đều vô thường “thành, trụ, hoại, diệt”, tuy nhiên đứng trước cảnh này, mọi người không khỏi cảm thấy bùi ngùi xúc động, làm tôi nhớ đến bài thơ của bà Huyện Thanh Quan, Thăng Long Thành Hoài Cổ:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường

Nguyện cho chúng sanh hiểu rõ ‘Ngàn năm gương cũ soi kim cổ', để biết qui hướng về Giáo Pháp của Phật, bỏ tà về chánh, hướng về điều thiện lành, tránh gây mọi khổ đau cho nhân loại và chúng sanh.

   

Nguyên Trí – Hồ Thanh Trước

 

 

 

 

Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/vanhoaxahoi/vanhoa/miendienquocgiaphatgiao.html


Cái Đình - 2025