Topa
Chiếc xe thổ mộ
Vừa bước chân vô trong quán, tôi giật mình khi nhìn thấy lại người thiếu nữ có đôi con mắt thật đặc biệt đang ngồi trong góc quán và nhìn tôi đến không chớp mắt. Cô gái nhìn tôi như thể cô muốn thôi miên tôi, buộc tôi phải nhìn lại cô. Và, tôi đã nhận ra cô là người mà tôi đã gặp qua. Đây là lần thứ hai tôi gặp cô. Lần trước – cách nay chỉ một ngày – khi đó tôi đang đi bộ từ nhà đến quán café này, và thấy cô đang đứng trước cổng Công Viên Tao Đàn. Cô đứng đó như cô đang chờ đợi người nào đó sẽ đến với cô. Có một điều lạ là, đôi mắt của cô như có ma lực buộc tôi phải nhìn ngay mặt cô; mặc dù tôi rất ngại nhìn những cô gái trẻ. Đôi mắt của cô, dù tôi chỉ nhìn thoáng qua thôi, nhưng, tôi sẽ dễ dàng cảm nhận đôi mắt đó là của người tôi từng quen biết. Tôi sợ có người thấy tôi nhìn cô cách quá sỗ sàng và sẽ cho tôi là, ‘già mà còn ham gái trẻ. Già hết xí quách rồi mà còn muốn… tò tí te’. Một ông già bảy mươi chín tuổi, răng cỏ chỉ còn đúng bốn cái… đang lung lay chưa biết giờ nào nó rụng; và ăn mặc lại tuềnh toàng như ông già nhà quê … thì còn ham muốn gì nữa mà nhìn gái trẻ chứ.
Cô gái vẫn ngồi đó và vẫn đang nhìn ngay tôi. Nhưng, hai tay của cô lại đang mân mê một vật mà thoạt nhìn, tôi đã nhận ra ngay đó là chiếc xe thổ mộ – chiếc xe có một con ngựa kéo để chở hàng hóa và chở người rất thông dụng vào những năm của thập niên bốn mươi năm mươi của thế kỷ thứ hai mươi… mà nay chiếc xe đó đã đi vào dĩ vãng rồi.
Tôi là khách thường xuyên của quán café, nên mỗi lần đến đây các nhân viên của quán đã biết “gu” của tôi uống gì. Vì vậy khi tôi ngồi vô ghế chưa được một phút, một cô tiếp viên đã đem đến đặt trên bàn của tôi ly café sữa.
Ngồi một lúc, tôi muốn biết cô gái ngồi đó một mình hay còn với người nào không, nên, tôi quay đầu qua để nhìn cô. Nhưng, cô đã ‘biến’ đi đâu mất rồi. Trên bàn thì chiếc xe thổ mộ xưa vẫn còn để đó. Đây cũng là điều làm cho tôi phải bị nhức đầu. Cô gái không thể đi vô nhà vệ sinh được vì người lao công đang làm vệ sinh mà cửa nhà vệ sinh thì đang mở ra toang hoác. Cô cũng không thể đi ra khỏi quán được, vì khi cô đi cô phải đi ngang qua trước mặt tôi.
Nhân có một cô tiếp viên đi ngang qua chỗ tôi ngồi, tôi chận cô lại. Tôi vừa chỉ tay về cái bàn có chiếc xe thổ mộ vừa hỏi:
“Cô ơi, cho tôi hỏi cô một chút. Cô gái ngồi ở cái bàn kia đi đâu cô có biết không?”
Cô tiếp viên nhìn theo hướng tay tôi chỉ rồi quay lại nói nhỏ với tôi:
“Bác ơi. Có lẽ đèn trong quán mờ quá nên làm cho bác... tưởng tượng chứ có ai ngồi ở cái bàn đó đâu bác.”
“Ơ… tôi mới nhìn thấy...”
“Cái bàn đó không có khách bác à.”
Tôi lại chỉ tay về hướng cái bàn và hỏi:
“Thế cái xe ngựa… cái xe thổ mộ đó là của ai?”
Nghe tôi nói, cô tiếp viên liền đi đến cái bàn đó và cầm chiếc xe thổ mộ lên ngắm nhìn với vẻ ngạc nhiên. Cô tiếp viên liền hỏi cô ngồi ở quầy tính tiền:
“Bàn này có khách không chị?”
Người kia lắc đầu. Thấy vậy tôi ngoắc cô tiếp viên lại và cầm cái xe thổ mộ rồi cũng nhìn ngắm thật kỹ. Chiếc xe và con ngựa được làm bằng cây và đánh vẹc-ni bóng loáng. Tôi nhìn thấy bên hông chiếc xe có ghi ngày tháng và năm, 13-09-1947. Tôi định đưa chiếc xe lại cho cô tiếp viên thì, ngay lúc đó tôi bỗng giật nẩy cả người lên. Mồ hôi trên người tôi liền tuôn ra như thể tôi đang ở trong phòng tắm hơi. Tôi vội vàng nhìn lại những con số một lần nữa cho chắc chắn. Tôi ngước nhìn nhanh lên tấm lịch treo tường, tờ lịch của ngày hôm nay, 13-09-2009. Mồ hôi lạnh làm ướt đẫm hết cái lưng của tôi. Tôi hoảng hốt khi vừa nhớ ra khuôn mặt của cô gái mà tôi đã gặp tổng cộng hai lần là người nào rồi. Tôi lại nhìn chiếc xe thổ mộ đến không chớp mắt. Mặt của tôi lúc này chắc chắn phải nhợt nhạt lắm vì mồ hôi cứ chảy dầm dề từ trên trán xuống làm cho cả hai con mắt bị cay sè. Tôi như người bị mê sảng nên lảm nhảm nói đi nói lại chỉ một câu với cô tiếp viên:
“Trời ơi cô ơi. Vậy là tôi sắp chết rồi. Trời ơi là trời. Tôi sắp chết rồi… cô ơi.”
Tôi liền bước đi ra khỏi quán đến quên cả uống café và quên trả tiền ly café. Có lẽ cô tiếp viên của quán cũng ngạc nhiên khi nghe tôi nói lảm nhảm… mà chắc chắn cô không hiểu gì cả. Tôi đi ra khỏi quán và đi thật lẹ về nhà.
Khi tôi bước chân vô hẳn trong nhà, tôi liền nằm vật ra giường. Và, câu chuyện về chiếc xe ngựa – chiếc xe thổ mộ năm xưa – đang như cuốn phim hiện ra từ từ và thật rõ ràng trong cái đầu của tôi…
***
Đã năm tháng trôi qua kể từ ngày gia đình tôi dọn về ở trong khu đồng ruộng vắng vẻ vùng Đakao này. Chung quanh khu nhà tôi, tôi đếm được chỉ có tám căn nhà và tổng cộng có hai mươi mốt nhân khẩu. Thời gian đó toàn thành phố Saigon Gia Định dân cư vẫn còn rất thưa thớt, nên ngoài những khu trung tâm thị tứ ra, những vùng chung quanh phần nhiều vẫn còn là những khu hoang vắng với đầm lầy và ruộng lúa cùng sông ngòi chằng chịt. Tôi là con trưởng trong gia đình có bốn người em. Năm đó, năm một chín bốn bảy tôi đã mười bảy tuổi nên, tôi cũng muốn phụ giúp gia đình bớt gánh nặng trong sinh hoạt thường ngày. Tôi đã nhờ bạn bè kiếm giúp tôi một chỗ dạy kèm cho trẻ em vào buổi chiều.
Một ngày kia tôi được bạn bè giới thiệu một công việc đúng như ý muốn, dạy kèm cho hai anh em ruột còn nhỏ nhà ở vùng Phú Nhuận. Ngày đầu đến nói chuyện, tôi không giấu nỗi vẻ thất vọng khi được cho biết công việc chỉ bắt đầu vào lúc bảy giờ tối và kết thúc lúc chín giờ ba mươi. Thất vọng là vì nơi mà tôi mỗi tối đến dạy kèm cách nhà tôi cũng khoảng sáu cây số mà lại là khu vực quá vắng vẻ. Căn nhà tôi sẽ dạy kèm nằm cách cánh đồng trồng lúa khoảng hơn trăm thước và nằm sau dãy nhà mặt tiền ở con đường chính.
Con đường chính từ ngã tư dẫn đến chợ Phú Nhuận không có, hoặc có rất ít xe chạy vào thời gian tôi chấm dứt công việc. Và, nếu phải đi bộ về nhà thì tôi không dám vì đường quá xa và quá vắng vẻ âm u. Thật sự thì tôi cũng sợ ma lắm vì tôi tin có cuộc sống ở bên kia thế giới. Thấy tôi có vẻ lo lắng nên ông bà chủ muốn biết tôi bị những trở ngại gì. Ông chủ hỏi:
“Có điều gì không vừa lòng thì cậu cứ nói cho chúng tôi biết… xem sao, may ra chúng tôi có thể giúp cho cậu.”
Tôi nói ngay ra điều tôi lo sợ:
“Dạ... Kính thưa hai bác, chín giờ rưỡi thì trễ quá mà cháu lại không có phương tiện để di chuyển…”
“Chuyện đó cũng không có gì làm cậu phải lo lắng lắm đâu. Ngay ngã tư Phú Nhuận có bến xe ngựa. Nếu cậu đồng ý công việc và điều kiện thì chúng tôi sẽ chịu luôn tiền xe cho cậu. Cậu cứ hỏi xem giá cả như thế nào rồi cho chúng tôi biết.”
“Cháu cám ơn sự ưu ái của hai bác. Ngày mốt cháu sẽ bắt đầu công việc, cũng như sẽ cho hai bác biết về tiền xe mà cháu phải đi.”
***
Đi bộ từ nhà ông bà chủ ra đến ngã tư Phú Nhuận, tôi nhìn thấy một chiếc xe thổ mộ đã đậu ở ngã tư từ lúc nào rồi. Vị chi tôi mất đúng tám phút đi bộ từ chỗ làm việc ra đây. Thấy tôi nhìn chiếc xe, người xà ích già lên tiếng mời chào:
“Cậu đi về đâu?”
“Về Đakao… bao nhiêu bác?”
“Dạ, bốn cắc.”
Nhìn thấy trong xe không có khách nên tôi hỏi:
“Còn bao lâu nữa thì chạy vậy bác?”
“Dạ, cứ đúng mười giờ ba mươi dù không có khách tôi cũng chạy cậu à. Vì đó là chuyến cuối cùng.”
“Mỗi đêm đều đúng giờ như vậy hả bác?”
“Dạ, đúng vậy.”
Đường xá Sàigòn vào những năm cuối của thập niên một chín bốn mươi còn rất vắng vẻ, cả ban ngày cũng vậy. Xã Phú Nhuận thời gian đó thuộc vùng ngoại ô. Đường thì có trải nhựa và rộng thênh thang nhưng rất ít xe cộ và người. Mỗi đêm tôi đi bộ từ nơi làm việc ra đến bến xe thổ mộ luôn luôn cũng chỉ một mình tôi chứ tuyệt nhiên không thấy một người nào trên đường. Thảng hoặc, tôi mới thấy một chiếc xe chạy qua. Nhà ở hai bên đường Paul Blanchy (Võ Di Nguy sau này) từ ngã tư Phú Nhuận lên đến chợ Tân Định thì hầu hết sau chín giờ đều đã then cài cửa đóng. Những cây đèn điện ở hai bên đường không đủ soi sáng lắm, nhất là khoảng từ chợ Phú Nhuận lên đến cầu Kiệu. Có lần tôi đã nghĩ quẩn là nếu chẳng may có một bọn cướp ra chận chiếc xe thổ mộ bắt người xà ích và tôi lôi vô con đường hẻm để khảo của thì cũng chẳng ai dám đến cứu chúng tôi. Cảnh sát cũng chưa chắc đã dám can thiệp nữa nói chi đến người dân.
Có những lúc tôi cũng sợ khi nghĩ vu vơ về những chuyện ma quỉ hiện ra nhát người đi đường mà tôi thường được nghe ba má tôi kể lại, nhưng rồi tôi vội gạt những ý nghĩ đó ra khỏi đầu ngay. Tôi không muốn tự mình nghĩ ngợi huyễn hoặc rồi làm cho mình nhút nhát lo sợ vu vơ. Từ đêm đầu tiên cho đến đêm hôm nay là đã hai tuần trôi qua rồi, nhưng cũng chỉ một mình tôi là khách duy nhất của chuyến xe thổ mộ cuối ngày. Có đôi lúc tôi nhìn người xà ích từ phía sau lưng và cảm thấy tội nghiệp cho ông. Không biết mỗi ngày ông có bao nhiêu người khách? Cuộc sống quả là quá cơ cực đối với người lao động… như ông.
Đúng năm tuần làm việc trôi qua trong êm đềm thì, một đêm kia – thường thì tôi ngồi quay lưng lại với người xà ích và để hai chân được thòng xuống cái bàn đạp dùng để cho khách bước lên xe – tôi đang nhìn trời và cảnh vật hai bên đường, mặc dù cảnh vật vẫn giống như mọi đêm, nghĩa là ở những nơi có đèn đường thì còn sáng chứ từ chợ Phú Nhuận lên đến cầu Kiệu thì không. Đột nhiên chiếc xe thổ mộ từ từ chạy chậm lại. Tôi quay nhìn ra phía trước thì thấy có người đứng bên đường đang đưa tay đón xe. Tôi chuyển chỗ ngồi và tránh qua một bên thì cũng vừa lúc người xà ích lên tiếng:
“Cô về đâu cô?”
“Qua khỏi cầu Kiệu bao nhiêu tiền hả bác?”
“Dạ, hai cắc cô ạ.”
Khách là cô gái mà vì chỗ cô đứng đón xe không có ánh đèn đường nên tôi không nhìn thấy được rõ mặt. Cô gái thoáng nhìn tôi với cử chỉ hơi lúng túng khi cô tìm cách bước lên xe. Cái bàn đạp có hơi cao. Nhưng vì hai tay của cô đang ôm mấy quyển sách nên cô chưa biết phải làm sao để bước lên. Thấy vậy tôi nói:
“Cô đưa mấy quyển sách tôi cầm giúp cho.”
Sau khi đưa mấy quyển sách cho tôi, cô gái đặt một chân lên cái bàn đạp và tay cô cầm cái vịn tay rồi leo lên ngồi cạnh tôi. Nghĩa là cô cũng để hai chân thòng xuống chỗ bàn đạp. Có lẽ cô gái không muốn ngồi hẳn vào trong xe vì như vậy hai chân của cô phải bị co lại.
Tôi rất vụng về trong giao tiếp với phái nữ. Có thể nói là chưa bao giờ tôi có dịp trò chuyện thân mật với một cô gái nào cả. Tuy đang là ban đêm và trời lạnh, nhưng tôi cảm thấy mặt của tôi nóng ran, và, khi xe chạy ngang qua chỗ có ánh đèn điện tôi liếc nhìn thật nhanh mặt của người con gái để nhận ra là, nàng rất đẹp. Đẹp lắm! Tuổi của cô gái có lẽ cũng bằng tuổi của tôi thôi. Mùi thơm da thịt từ người của cô gái tỏa ra làm tôi ngây ngất và càng làm cho tôi rụt rè hơn. Người con gái từ khi thấy tôi nhìn lén thì từ đó nàng cứ cúi mặt nhìn xuống đường như thể cô muốn tìm kiếm vật gì đó dưới đường. Cô gái luôn ôm mấy quyển sách sát vô ngực như thể cô muốn những quyển sách đó luôn được sưởi ấm từ người của cô. Thỉnh thoảng cô gái cũng có ngước mặt lên một chút và rồi lại nhìn xuống mặt đường ngay. Mỗi lần chiếc xe thổ mộ nghiêng qua nghiêng lại vì mặt đường gập ghềnh rồi sự đụng chạm giữa cô và tôi làm cho cô giống như con giun. Cô co hai chân lên và thân mình thì muốn thu nhỏ lại để... ẩn mình. Những lần như vậy tôi chỉ biết nói lí nhí trong miệng hai tiếng xin lỗi mà tôi không biết cô nàng có nghe được hay là không.
Xe vừa chạy lên giữa cầu thì cô gái quay đầu lại nói với người xà ích:
“Ngừng ngay dốc cầu bên kia nghe bác.”
Sau khi trả tiền, cô gái bước xuống xe rồi thoăn thoắt đi xuống những bực thềm để đi vô xóm nhà mà tôi cố giương cho thật lớn hai con mắt lên để nhìn theo chiếc áo dài trắng của cô cho đến khi mất hút. Gần chỗ cô gái mất bóng, tôi nghe nói nơi đó có ‘bãi tắm ngựa’ của quân đội Pháp nên tôi không nhìn thấy căn nhà nào cả. Đêm tối… mù mù như vậy mà cô gái bước đi thoăn thoắt như vậy chứng tỏ cô đã quá quen đường lối đi trong đêm.
Ba đêm kế tiếp, cũng đúng tại địa điểm cũ, người con gái cũng ra đón xe và người xà ích cũng lập lại lời mời khách như ông đã từng mời tôi và cô gái lần đầu tiên.
Ngày mai thứ bảy cuối tuần tôi được nghỉ. Nhưng, ông bà chủ muốn mời tôi ăn bữa cơm với gia đình. Nếu không vì muốn gặp lại cô gái cùng đồng hành bốn đêm liền thì tôi đã từ chối, vì công việc ở nhà và bài vở ở trường quá nhiều.
Cả ngày thứ bảy tôi cứ nhớ mãi về người con gái cùng đồng hành trên một đoạn đường ngắn ngủi và tự hỏi, nàng làm gì và từ đâu đi ra đón xe vào thời điểm mà trên đường gần như hoàn toàn không còn một người bộ hành nào qua lại. Hay... cũng có thể lắm. Có thể cô gái cũng đi dạy kèm như tôi chăng? Rõ ràng cô gái có ôm một chồng sách giống như tôi vậy mà. Nhưng, cô gái trú ngụ ở căn nhà nào trong cái khu còn đầy ruộng nước hoang vắng mà cách phục sức của cô thì lại quá sạch sẽ với cái áo dài trắng tinh? Chắc chắn cô gái không thể là… tôi vội xua đuổi ý nghĩ kinh dị vừa thoáng qua trong đầu và tin rằng cô gái không thể là người của cõi âm hiện lên với mục đích… để chọc ghẹo, để nhát tôi. Chắc chắn cô gái cũng đang dạy học như tôi vì tối nay thứ bảy mà cô gái không ra đón xe như bốn hôm trước tức tôi đã nghĩ đúng. Và, đúng như tôi đã suy đoán, tối thứ bảy hôm đó cô gái không ra đón xe.
Tối ngày thứ hai đầu tuần bà chủ cho tôi về sớm một tiếng rưỡi vì lũ trẻ sẽ được bà đưa đi đâu đó. Được về sớm hơn một giờ, tôi thả bộ ra ngã tư Phú Nhuận. Người xà ích và chiếc xe thổ mộ chưa đến. Thời gian còn hơn cả tiếng đồng hồ nên tôi đi dọc theo đường Võ Di Nguy để nhìn ngắm các cửa tiệm. Ngay tại ngã tư phía tay trái tôi hướng về cầu Kiệu có một vườn ươm cây rất lớn hiện đã đóng cửa. Đối diện phía bên kia đường là nhà may Âu phục Bảo Toàn mà tôi định đến kỳ lương tôi sẽ đến đó may vài bộ… hiện cũng đã đóng cửa. Xa hơn một chút là ngã ba đường chưa được trải nhựa và rất nhỏ. Xa hơn một chút nữa có ngôi trường làng tên Võ Tánh. Sát ngay bên phải ngôi trường là tòa nhà của Hội Đồng Xã Phú Nhuận mà tôi thấy có một người lính đứng gác phía trước cổng. Xa hơn chút nữa về phía bên trái có một khu đất rộng lớn mà người ta đang xây rạp chiếu phim, mà ông bà chủ đã có nói cho tôi biết, đồng thời ông bà cũng nói là sau khu đất rộng lớn đó là khu nhà của nông dân sinh sống bên những cánh đồng lúa chạy dài đến khu nhà của ông bà. Phía trước khu đất rộng, bên kia đường có một cái đình mà tôi không biết tên vì nơi đó không có ánh đèn. Phía trước đình có một cái phông tên nước mà giờ này vẫn còn nhiều người đến gánh nước. Đi thêm một quãng nữa tôi đã đến chợ Phú Nhuận. Giờ này dĩ nhiên chợ cũng không còn buôn bán nên vắng tanh và tối thui. Từ chợ Phú Nhuận đến cầu Kiệu, hai bên đường là hai dãy nhà lá, nhà tôn nhưng không có căn nhà nào có ánh đèn. Phía sau những căn nhà đó cũng là những cánh đồng ruộng mênh mông nước.
Bất chợt tôi nhìn về phía xa xa nơi mà đã bốn đêm có người con gái cùng tôi trên chiếc xe thổ mộ. Tôi nghĩ người con gái có lẽ giờ này cũng đang ngồi đâu đó trong các căn nhà ở khu đó và đang dạy kèm cho mấy em nhỏ. Nhìn đồng hồ thấy đã gần đến giờ nên tôi quay trở lại ngã tư Phú Nhuận.
Từ xa tôi đã thấy chiếc xe thổ mộ đậu sẵn tự bao giờ. Người xà ích có lẽ quá mệt suốt một ngày lao động nên ông nằm ngã lưng ra sàn xe và chân này gác lên lên chân kia còn cánh tay phải đang vắt ngang trán. Người xà ích già có lẽ đang ngủ. Con ngựa thì thỉnh thoảng co cái chân trước lên rồi nhịp nhịp xuống mặt đường như thể nó đang bực bội vì phải đứng yên một chỗ quá lâu.
Đêm nay, với sự háo hức trong lòng mong được gặp lại người con gái đi cùng trên chiếc xe trong mấy đêm qua thì… chiếc xe thổ mộ đã bình thản chạy qua địa điểm nơi có người con gái vẫn thường đứng đón mấy đêm trước. Tôi cảm thấy hụt hẫng, cảm thấy buồn như vừa bị mất một vật rất quý. Tôi quay nhìn ông xà ích nhưng gương mặt của ông vẫn bình thản như những ngày qua. Ông cầm dây cương và mặt nhìn thẳng về phía trước như không cần phải thắc mắc làm gì đến việc thiếu vắng một người khách quen đêm nay.
***
Đêm hôm nay khi tôi vừa ra đến chiếc xe thổ mộ thì trời cũng vừa bắt đầu rơi những giọt mưa nhỏ xuống trần gian; những giọt mưa đầu mùa. Tôi uể oải bước lên xe và ngồi co chân trong lòng xe vì tôi không muốn đôi giầy bị ướt. Tôi dựa đầu vào thành xe và nhắm mắt lại. Tiếng vó ngựa vẫn nhịp đều trên mặt đường và cái âm thanh nghe quen tai mà mọi khi tôi rất thích, nhưng đêm nay tôi cảm thấy cái âm thanh đó nó làm phiền tôi vô cùng.Tôi nhắm mắt lại nhưng trong cái đầu tôi lại cứ nghĩ về cô gái. Chiếc xe ngựa bỗng từ từ giảm tốc độ làm cho tôi giựt mình và ngồi thẳng người lại. Tôi ngoái cổ nhìn về phía lề đường vì biết chắc người xà ích cho con ngựa giảm tốc độ để đón người khách mà tôi đang mong đợi. Tôi vui mừng quá đỗi. Vui như lúc còn bé đón mẹ đi chợ về vì biết chắc sẽ được mẹ mua cho cái bánh hoặc cái kẹo. Người con gái kia sẽ không cho tôi bánh hay kẹo, nhưng, đích thật sẽ cho tôi niềm vui và hy vọng.
Cô nàng có vẻ lúng túng vì không biết phải ngồi như thế nào vì trời đang mưa thì, tôi đã lẹ làng ngồi ra phía ngoài như tôi vẫn thường ngồi để chỗ cho cô nàng ngồi được rộng rãi. Khi người xà ích chuẩn bị cho con ngựa cất vó chạy thì cô nàng lên tiếng nói khơi khơi, nhưng chắc chắn là nói cho người xà ích và tôi cùng nghe:
“Cả tuần nay... bị cảm mà bây giờ lại gặp mưa nữa… Xui xẻo quá!”
Ôi chao, giọng nói của cô nàng nghe sao mà nhẹ nhàng nghe sao mà vi vút giống như cơn gió nhẹ thoảng qua tai. Giọng nói sao mà… ngọt còn hơn cả mật ong ngọt hơn cả mía hấp nữa; tuy cô nàng đang bị cảm như cô nàng vừa cho biết.
Tôi quay nhìn qua phía cô nàng nhưng cô nàng đang hướng mặt nhìn về phía trước. Cơ hội đang có. Dịp may sẽ không đến... hai lần nếu như tôi không lên tiếng về những gì đã ấp ủ trong lòng cả tuần qua thì sợ sẽ không còn dịp nữa. Và, thế là tôi hít một hơi cho không khí vào đầy hai cái lá phổi rồi... rụt rè lên tiếng nói:
“Cô... cô nên cầm theo cái áo mưa...”
Rõ ràng là tôi vừa thốt ra một câu thật hết sức vô duyên. Chính tôi cũng không ngờ có cơn mưa bất chợt đến như đêm nay để đem theo áo mưa thì làm sao cô nàng biết trước được mà đem theo chứ. Nhưng, thật may mắn là cô nàng lại nở nụ cười và nói:
“Em… em cũng không ngờ đêm nay lại có mưa.”
Tôi nhìn cô nàng và muốn mở miệng ra nói, nói bất cứ chuyện gì nhưng, cái hột thị quái ác nó cứ nằm ngay cổ họng làm tôi cứ trơ hai con mắt ra nhìn cô nàng mà trong lòng xao xuyến… mà vẫn không thốt ra được lời nào.
Cô nàng có nụ cười quá xinh với hai hàm răng trắng muốt và thật đều. Dưới ánh sáng của những ngọn đèn đường hắt vào trong xe làm cho gương mặt của cô nàng thoáng ẩn thoáng hiện trông thật thanh tú và thật huyền ảo. Hai hàm răng của cô nàng trắng tinh. Tôi không biết cách nào để bắt chuyện nên hai bàn tay cứ hết chắp vô với nhau rồi lại xoa xoa vô với nhau như thể là đang bị lạnh vậy.
Sự im lặng thật dài, thật lâu, chỉ nghe tiếng vó ngựa gõ đều đều trên mặt đường giữa đêm khuya vang lên. Phút chốc chiếc xe thổ mộ đã lên đỉnh cầu và đang đổ dốc. Người xà ích đang ghìm cương để chiếc xe từ từ dừng lại. Tự nhiên tôi buột miệng:
“Cô hãy đi mau về nhà kẻo ướt. Tôi xin được trả tiền xe đêm nay giúp cô.”
Một lần nữa, cô nàng nhìn tôi và nở nụ cười thật tươi đồng thời cô nàng cũng lí nhí nói cám ơn, rồi bước nhanh xuống những bực thềm dẫn vô khu nhà tối tăm không có đến một chút ánh sáng chiếu rọi đến.
***
Từ phía xa tôi đã nhìn thấy cô nàng đứng ngay chỗ đón xe mỗi đêm. Tự nhiên trái tim của tôi cứ đập liên hồi và đập thật mạnh. Cô nàng nhìn tôi gật đầu chào và đồng thời cũng ban phát cho tôi nụ cười. Mãi một lúc sau tôi mới mở được miệng ra nói:
“Có lẽ… cô cũng đi dạy ở gần chỗ cô đứng đón xe?”
“Dạ, đúng vậy anh à. Sao… anh biết hay vậy?”
“Tôi chỉ đoán… mò vậy thôi. Tôi… Tôi cũng đang dạy kèm cho mấy em ở khu ngã tư Phú Nhuận nên…. Tôi xin tự giới thiệu, tôi tên Ngọc.”
“Ô, vậy ra anh Ngọc và em có cùng một công việc giống nhau. Mình là đồng nghiệp anh Ngọc há.”
Tôi liền đổi cách xưng hô:
“Nhà… em ở... ở dưới đó hả?”
“Dạ, đúng rồi anh. Đi xuống hết mấy bậc thềm rồi quẹo phải sau đó quẹo trái đi theo mé sông đến căn nhà cuối cùng là nhà của em. Em sống với ba vì mẹ em mất lâu rồi. Em tên Thơm. Ban ngày em đi may tới chiều mới về. Ăn cơm xong nghỉ một chút là em lại đi đến gần chỗ mà em thường đứng đón xe. Em dạy kèm cho hai em bé gái.”
“Còn bến tắm ngựa…”
“Qua khỏi nhà của em một đoạn ngắn là đến ‘bến tắm ngựa’… anh à.”
Xe đã đến chỗ mà Thơm phải xuống. Thơm nhoẻn miệng cười và nói lời từ giã:
“Hẹn anh Ngọc đêm mai… mình gặp lại. Cám ơn anh Ngọc đã trả tiền xe cho em hôm qua. Hôm nay anh Ngọc để em được tự trả nghe anh.”
“Không đáng bao nhiêu mà… Thơm. Em cứ đi về đi. Chúc em ngủ ngon… em nhé.”
“Cám ơn anh Ngọc nhiều lắm. Em... muốn mời anh Ngọc đến nhà em cho biết nhưng... em ngại vô cùng vì nhà em nghèo quá.”
“Được em mời đến nhà là quý lắm rồi. Gia đình anh cũng đâu phải thuộc loại giàu có sang trọng gì mà dám chê ai.”
“Vậy anh cứ hỏi trước… ông xe ngựa xem có chịu chờ để đưa anh về không thì đêm mai em mời anh đến nhà cho biết nhà. Thôi bây giờ em về nghen. Chúc anh Ngọc ngủ ngon.”
***
Tôi lẽo đẽo đi theo sau Thơm như cái bóng. Tôi đi theo phía sau Thơm là vì đường đi nhỏ và lại quá tối. Đoạn đường gồ ghề nên Thơm vừa vấp vào một vật gì đó nằm trên đường và như muốn ngã chúi về phía trước. Nhưng, tôi đã kịp thời đưa tay ra nắm lấy cánh tay Thơm. Cánh tay của tôi chạm vô tay của người con gái rồi chuyền qua tôi một cảm giác… lạnh buốt. Tôi thấy thật ái ngại cho Thơm. Vì sao đêm hôm khuya khoắt như thế này mà Thơm lại không cầm hờ theo cái áo lạnh khi mà cô vừa trải qua một cơn bệnh kéo dài cũng cả tuần lễ. Tôi vừa nhớ lại là mấy đêm vừa qua, Thơm thường hay ngồi co ro và ôm sát chồng sách vô lòng như để cho hơi ấm không thoát được ra khỏi thân thể của Thơm. Tôi nghĩ và thấy thương Thơm nhiều hơn. Tôi nghĩ là tôi sẽ tặng Thơm cái áo ấm thật đẹp vào đêm mai.
Đi hết một dãy nhà khoảng tám căn mà mỗi căn cách nhau cũng có đến… năm mười thước, Thơm dừng lại trước một căn nhà ở cuối dãy. Căn nhà khá nhỏ được che chắn chung quanh bằng ván cây mỏng và nóc nhà được lợp lá.Thơm đẩy nhẹ cánh cửa rồi gật đầu với tôi ra hiệu bước theo nàng vào bên trong. Gần ngay cửa ra vô có đặt một cái bàn nhỏ, trên bàn đặt một cây đèn dầu cũng nhỏ đang cháy leo lét. Kế bên cái đèn là bình nước được đựng trong cái vỏ của trái dừa; với bốn cái ly nhỏ và được đựng chung trong một cái dĩa bằng nhôm. Sau cái bàn là cái giường được che chắn bởi một tấm màn màu trắng. Phía bên trái là nhà bếp. Cạnh cái bếp có treo một cái võng và trên đó có người đàn ông đang nằm mà tôi đoán là ba của Thơm. Thơm lên tiếng khi người đàn ông bỏ chân xuống khỏi võng.
“Con có mời anh Ngọc ghé nhà mình cho biết. Anh Ngọc là người đã trả tiền xe cho con mà con đã có kể cho ba nghe rồi đó.”
Tôi không thấy rõ được mặt ba của Thơm vì ánh đèn dầu không đủ soi sáng khắp căn nhà. Tôi khoanh tay lại và gật đầu chào… đại:
“Chào bác ạ.”
Thơm nói:
“Anh ngồi xuống đó đi. Em pha trà anh uống cho ấm nhé. Em bị lạnh quá. Em sợ bị bịnh quá anh Ngọc à.”
Trong lúc Thơm nấu nước tôi nói như lo lắng cho Thơm:
“Người của… em lạnh lắm. Lạnh cứ như là... tảng băng vậy. Em đi làm đêm mà ăn mặc như vậy dễ bị bịnh lắm.”
“Em định tới đầu tháng khi lãnh lương, em sẽ mua một cái áo lạnh thật dầy chứ mỗi đêm cứ như vầy thì sợ sẽ không kéo dài được lâu.”
Niềm cảm xúc trổi dậy trong lòng tôi. Thơm nghèo nhưng thật thà quá. Thơm nói chuyện thật tự nhiên và rất thân tình. Thơm cầm ly nước đến mời tôi:
“Mời anh Ngọc uống nước cho ấm.”
Tôi đón ly nước từ tay Thơm. Bàn tay của Thơm tuy đang cầm ly nước nóng, vậy mà cũng lạnh ngắt. Hớp nước vừa trôi qua cổ họng, tôi liền cảm thấy trong người nóng ran lên như có cả ngàn ngọn lửa đốt bên trong và lòng tôi rạo rực khi thấy Thơm đang nhìn tôi. Bỗng Thơm đưa cả hai bàn tay lạnh ngắt về phía tôi. Tôi liền nắm chặt hai bàn tay lạnh như ướp nước đá của Thơm như muốn truyền hơi ấm qua cho nàng. Thơm chỉ tay đến cái giường. Trên giường có một cái gối và cái mền, Thơm nói như mời gọi:
“Anh Ngọc đến nằm một lúc cho ấm… rồi hãy về.”
Tôi làm như cái máy. Tôi đứng lên và liền đi đến giuờng rồi nằm xuống. Tôi thấy Thơm đang từ từ cởi bỏ cái áo dài ra và, Thơm cũng cởi bỏ luôn cái nịt vú ra luôn. Thơm quay lưng lại phía tôi rồi nàng cởi quần của nàng ra. Thơm lên giường và nằm xuống bên cạnh tôi. Thơm ôm tôi. Tấm thân trắng nõn nà không còn một mảnh vải che thân và lạnh như tảng nước đá mà giờ đây tôi như không còn thấy lạnh nữa. Thơm đang ôm tôi nhưng bàn tay của nàng cũng thoăn thoắt cởi bỏ tất cả những gì trên người tôi ra.Trong cơn ngây ngất đê mê tôi đã nói với vô tai Thơm những lời xuất phát tự con tim đang yêu say đắm:
“Thơm ơi… anh yêu em. Anh muốn chúng mình chung sống với nhau. Anh muốn em và anh chung sống suốt đời... với nhau.”
Thơm siết chặt tôi hơn và thì thầm bên tai tôi những lời… nguyền mà suốt cả cuộc đời tôi, tôi luôn bị ám ảnh đến không bao giờ quên được:
“Hôm nay là ngày mười ba tháng chín năm một ngàn chín trăm bốn mươi bảy. Bây giờ là mười một giờ hai mươi tám phút. Đêm nay em sẽ trao cho anh cái quý nhất của đời em. Em cũng sẽ trao cho anh một món quà mà không một người nào trên thế gian này có được. Khi thời điểm đến ngày… anh phải từ giã tất cả để đi về một nơi hoàn toàn xa lạ, em sẽ đến trước một tháng để báo cho anh biết. Khi anh nhìn thấy em và nhìn thấy chiếc xe thổ mộ được thu nhỏ, chiếc xe mà mỗi đêm ba của em vẫn đưa anh về nhà. Anh sẽ hiểu là thời gian của anh chỉ còn đúng ba mươi ngày. Anh sẽ ‘đi’ cũng đúng vào giờ này.”
Tôi nghe rõ những lời Thơm nói, nhưng cái đầu của tôi đang như có ngọn lửa đốt cháy bừng bừng nên tôi không hiểu tất cả. Tôi muốn hỏi, tôi muốn nói, nhưng tôi lại không thể há miệng ra được. Tôi chưa hiểu tại sao lạì có hiện tượng lạ như vậy, thì, Thơm kéo tôi nằm hẳn lên người của nàng. Tôi quên hết mọi chuyện khi tôi ôm chặt lấy thân hình săn chắc của cô gái mới lớn lên, của Thơm. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau như hai con Sam… Sau khi tôi tận hưởng thân xác của Thơm với các cảm giác đê mê, tôi đã chìm vô giấc ngủ thật sâu.
***
Năm ngày sau tôi trở lại khu đất có căn nhà của Thơm. Khu đất không có căn nhà nào cả. Nhưng… có hai ngôi mộ nằm cách ‘bãi tắm ngựa’ của lính Pháp khoảng một trăm thước. Những người đi làm ruộng buổi sớm mai đã nhìn thấy tôi nằm cạnh bên một ngôi mộ và đã cứu tôi.
Hỏi thăm rất nhiều người, cuối cùng tôi cũng gặp được một gia đình khi xưa sống ngay khu đất đó rất lâu năm, và, nay gia đình đó đã dọn ra ngoài mặt lộ và mở tiệm bán xe đạp. Ông chủ tiệm già kể cho tôi nghe về hai ngôi mộ như sau:
“Cô tên Thơm thì… tôi nhớ là tôi có gặp cô rồi. Ngay chỗ có hai ngôi mộ hoang đó thì khi xưa có một gia đình chỉ có hai cha con sinh sống với nhau. Người cha làm nghề chạy xe thổ mộ. Người con gái còn đi học. Đó là cô Thơm. Cố rất hiền và rất đẹp. Vào một buổi tối… đâu cuối năm 1945 có mấy người thuộc lực lượng Việt Minh đã đến khu đất đó. Mấy người thấy gần đó là ‘bãi tắm ngựa’ của quân đội Pháp, nên bắt cô Thơm và định hãm hiếp rồi đổ cho lính Pháp. Nhưng, cô Thơm đã lấy cây kéo cắt vải tự đâm vô ngực. Vừa lúc đó người cha đi đâu về và, có lẽ bọn Việt Minh sợ chuyện đổ bể nên họ giết luôn người cha. Sau khi giết người xong, bọn chúng đốt căn nhà với hai cái xác bên trong rồi bắn nhiều phát súng như là đang đụng với lính Pháp. Căn nhà đang cháy dở dang thì bất ngờ một cơn mưa lớn đổ xuống và làm tắt đám cháy. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi – những người đi làm ruộng – nhìn thấy xác chết của hai cha con nhưng chưa bị cháy hết nên chúng tôi đã chôn ngay tại nền của căn nhà đó. Ngày đó loạn lạc và người dân còn nghèo khó lắm nên đâu có phương tiện để chôn cất hai cha con cho đàng hoàng được. Sau này có hai người trong đám Thanh Niên Tiền Phong thuộc phong trào Việt Minh đã tìm về với quốc gia và đã cung khai tất cả sự thật… nên chúng tôi rất sợ Việt Minh.”
***
Tôi biết thời gian của tôi chẳng còn bao lâu nữa tôi sẽ từ giã cuộc sống ở cõi tạm này. Lúc mới nhìn thấy lại Thơm và chiếc xe thổ mộ được thu nhỏ trong quán café, tôi đã quá sợ hãi. Nhưng, bây giờ tôi hoàn toàn bình tâm và đã sắp xếp mọi chuyện đâu vào đó cả rồi. Tôi bình thản chờ đón điều sẽ phải xảy đến cho con người. Đã là con người thì ai ai cũng phải một lần chết. Trong khi chờ đón điều sẽ đến, mỗi ngày tôi vẫn đều đặn đến quán uống café một lần, nhưng tôi không còn gặp lại Thơm lần nào nữa.
Có một điều chắc chắn là chỉ có một mình tôi trên thế gian này là người biết trước đúng tháng đúng ngày và đúng giờ mình ra đi. Như vậy chỉ còn mười ba ngày nữa là tôi sẽ phải từ giã tất cả để ra đi như Thơm đã có nói như vậy với tôi vào cái đêm… thần tiên của ngày xa xưa lắm.
Tôi đã bảy mươi chín tuổi rồi. Đến tuổi này mới “đi” thì xem ra tôi cũng đã thọ lắm rồi. Hơn nữa trước khi “đi”, tôi lại có đủ thời gian để hoàn tất mọi việc.
Tôi hy vọng sẽ được gặp lại Thơm ở bên kia thế giới. Tôi mong lắm.
.
Topa (Hòa-Lan)
Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/vanhocnghethuat/van/chiecxethomo.html