Lê Thị Thanh Tâm
Tuổi trẻ, Tình yêu và Chiến tranh
.
Sáng đến trường V.K. nghe 2 giờ về "thế nào là bản nhạc hay" của linh mục Tiến Dũng. Thầy giảng rất hay, nên lúc về em đi theo thầy để xin ý kiến về loại nhạc dịch bây giờ.
Đúng, thầy cũng bất đồng ý với tác giả làm em thích thú quá, thầy hứa sẽ giới thiệu em và nhỏ Thanh Mai cho nghệ sỹ Bích Thuận để học ngâm thơ. Thích quá, tha hồ mà ngâm nhá. Hai đứa mơ sau này có mái nhà, có vườn hoa em sẽ bày đàn tranh ra đấy trong một đêm trăng sáng để ngâm thơ cho chàng nghe thì tuyệt quá.
Vào hội quán, Mai vẫn cứ nhí nhảnh vòi vĩnh anh bạn đưa hai đứa đi ăn bò bía, vì nó vẫn được nuông chìu như vậy. Em chả thèm cứ để nó làm chi thì làm, vì em còn giờ văn học chữ Nôm của thầy Sâm nữa mà.
Thanh-Mai học cùng trường V.K. mà em chả biết, mãi hơn nửa năm sau tình cờ gặp nhau trong sân trường, hai đứa vui mừng vô cùng, vì học chung từ thời trung học T.V. Lúc ấy Mai là con bé còn khép kín, khi nói chuyện nó hay nhìn xuống đất như tìm chữ và ý, giọng nói khẽ khàng và rất cẩn thận chậm rãi như nhà hiền triết. Mà thật vậy, nó giỏi Việt văn nên các năm ấy Mai và Cẩm Anh thay nhau giữ ghế trưởng ban báo chí của lớp. Đến khi hai đứa qua ban C rồi, em ở lại thì các bạn bầu em thay vào việc ấy.
Thế nên bẵng đi vài năm không gặp lại, Mai thay đổi rất nhiều khiến em ngạc nhiên và thích thú. Vì nó đã lột xác, bỗng nhanh nhẹn, linh động và nghịch ngợm rất có duyên và theo ban triết là đúng với mẫu người của nó. Điều quan trọng là cô nàng sinh hoạt trong nhóm đại diện V.K. rất có uy thế nên lúc nào cũng bận rộn.
Gặp lại em, Mai mừng lắm vì giờ hai đứa chỉ còn là bạn cũ T.V. cùng lớp với nhau thôi.
Vài tuần sau, có một chiều đi dạy về em ghé nhà Mai, lâu không gặp hai đứa nói đủ thứ chuyện. Nó bảo tối nay có buổi thảo luận về thơ Bàng-bá-Lân ở Hội Việt-Mỹ mà nó không muốn đi vì còn chờ Lân – người yêu của nó.
Nhưng, ăn cơm tối xong gần 8 giờ em bỗng muốn đi nghe thơ, bèn mặc đồ phóng qua nhà Mai rủ nó đi. Đã sợ trễ mà nó còn ỡm ờ nhìn ngắm em mãi, phát sốt ruột. Đến nơi, đáng tiếc vì bà Hồ-Điệp đã ngâm thơ mất rồi, dáng ngồi của bà thật đẹp, đúng thật là người thơ và tay đàn tranh già cội tuyệt hay. Không khí trang trọng và như nín thở - nghe - cảm nhận.
Ông Bàng-bá-Lân không già lắm, có giọng Hà-nội ấm và truyền cảm, ngâm nga rất có hồn nhưng không hiểu sao em nhìn nét mặt không mấy tin tưởng. Mà thật, ông ta không có dũng khí chút nào, em bỗng nản quá khi thấy rõ điều này: - Trí thức chơi nhau đó sao?
Vì cuộc nói chuyện về thơ văn giữa ông và ông Nguyễn-hữu-Lương là thầy dạy môn Hán của Mai. Ông Lương được dạy trường đh. V.K dù chỉ là học-giả vì ông không có bằng cấp, nhưng có thực tài. Ông không đồng ý với Bàng-bá-Lân đã kết luận về 2 câu thơ của Benda Jandie là không trung thực. Cả hai cãi nhau mà B. b. Lân thắng thế nhờ la to át giọng và khinh miệt đối phương, ông ta rất nóng nảy, bất lịch sự kéo số đông về mình.
Ngồi xem mà bọn em thấy thương thầy Lương, mặt dần xám vì tức. Có cái giận nào bằng bị hạ giữa đám đông là tai mắt văn thơ nghệ sỹ Sài-gòn không? Tủi hổ lắm vì lý mình đúng. Đáng trách một phần là tụi "khỉ" ngồi nghe không ý thức gì cả, thấy ai nói giỏi nghe xuôi tai là cứ vỗ tay hùa theo liên tiếp. Thấy vậy, Hồ-Điệp bèn cứu nguy bằng ngâm bài thơ ''Một mùa đông" của Lưu-trọng-Lư. Bà ngâm tuyệt quá – em lịm người trong lời thơ não nùng, trong tiếng đàn trầm êm ấy, dù rằng các bài thơ thời tiền chiến này lũ nữ sinh bọn em thuộc nằm lòng từ ngày mới lớn cơ mà...
Em là gái trong khung cửa.
anh là mây bốn phương trời.
Anh theo cánh gió chơi vơi
em vẫn nằm trong nhung lụa
Em chỉ là người em gái thôi. .
Ôi! em lặng chìm - em rưng rưng... có phải chính em cũng là gái trong khung cửa và anh là mây bốn phương trời không?
... Ngày hôm tiễn biệt, buồn say đắm
Em vẫn đùa nô, uống rượu say
Em có biết đâu đời vắng lặng
Lạnh buồn như ngọn gió heo may
Tuy môi em uống, lòng anh say
Lời em càng nói càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.
Tuyệt quá, em càng nghe càng lịm dần sung sướng- buồn buồn - nhớ nhung. Có đi nghe Hồ-Điệp ngâm em mới thấy chất thơ có quá nhiều quyến rũ. Vậy mà ngày mới lớn em chỉ mê văn, bây giờ những năm gần đây em mới để ý đến thơ. Cám ơn Hồ-Điệp, người đàn bà đã đem bao êm đềm dịu ngọt cho cuộc đời.
Hồ-Điệp cũng xoa dịu B. b. Lân bằng bài thơ "Ngùi trông về Bắc" của ông, nhưng nếu so sánh với thơ của Lưu-trọng-Lư thì thua xa:
Dừng bước nơi đây lòng ngổn ngang,
Ngùi trông về Bắc nhớ tre làng
Nhớ cây đa cỗi bên chùa vắng
Nhớ mảnh ao bèo gió lạnh sang
Nhớ giải đê cao lũ mục đồng
…..
...Ccha còn tát nước trong khe
Anh bừa, chị cấy ngoài kia... ạ ời...
(Đồng quê bắc Việt ơi!)
Chao ơi, thơ gì như ca dao không bằng, không hiểu sao bà lại chọn bài này vì B. b. Lân còn nhiều bài hay hơn cơ mà?
Và sau đó, nhiều dân tai mắt thơ văn lên tiếng như Vương-đình-Thợ, đầu bạc trắng như tiên ông và ông ra vẻ mộc mạc khiêm nhường, bảo:
– Nàng thơ đang lên đường là nàng chưa tới – nàng chưa tới nghĩa là ta chưa có thơ.
Câu của Benda Jandie đã bị mổ xẻ tận tình. B. b. Lân phải xuất mồ hôi khi bà thi sỹ Trùng Quan chỉ nói 1 câu:
– Nãy giờ ta nói chuyện có là thơ hay không?
Đau quá, B. b. Lân phải cầu cứu cụ Tam-Lang trả lời thật xuất sắc:
– Định nghĩa thơ là gì?
và Vũ hoàng Chương đọc bài thơ “Mười năm sầu thảm” của Hàn Mặc Tử:
Nghe gió là ôm ngang lấy gió
tưởng chừng như trong đó có hương
…
...Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó vẫn khăng khít cười
Và cuối cùng là ông Đặng-đức-Hiệp kết luận:
– Thơ là thơ, không thơ cũng là thơ.
Tối ấy, hai đứa trở về nhà hơn mười giờ – nhìn những cặp vợ chồng già dắt nhau đi nghe thơ, thật đẹp. Em bảo Mai:
– Đây cũng là thơ mầy ạ.
Hai đứa cười, thấy hạnh phúc của tuổi trẻ mình mà quý thương vô cùng.
Nhưng đêm ấy em cũng nản – không học được gì ngoài ở điều đã học là: tuyệt vọng!!
***
Mấy tháng nay chiến trường sôi động, không khí thành phố và trường Văn Khoa cũng căng thẳng. Hình như mọi người đều nín thở. . như chờ một ngòi thuốc nổ!!
Buổi sáng đạp xe mini ra ngõ đã thấy lính đứng gác nhiều, đâm sợ. Đến ngã tư chỗ trạm xe bus thấy Mai mặc áo dài tím than, quần trắng, hài tím đứng vẫy em. Hai đứa mình hôm nay ăn mặc thơ mộng thật: em thì áo lụa Hà-đông, quần trắng thướt tha.
Đèo nhau đến trường, leo mãi lên lầu ba để vào lớp, mệt bắt chít. Hôm nay học thầy Trị dạy triết môn siêu-luận-lý, em thích học triết ké với lớp Mai. Thầy người Huế, tuổi ngoài 30 và rất lịch sự thắt cravate sọc, bản to đúng mode trông hay hay. Đôi mắt thầy rất nhạt màu như Tây và đẹp nhất là lúc thầy nhíu mày. Lối giảng bài của thầy khá lạ, cũng như lối đốt thuốc thật quyến rũ.
Bài thầy giảng về Siêu-luận-lý nên em không thể nào hiểu nổi, ngay chính Mai cũng vậy. Thầy cũng biết rõ như thế, như hôm qua có giờ siêu-hình-học, may là thầy nghỉ dạy, nếu không chắc mệt cả hai tai luôn.
Hết giờ xuống sân trường Mai gặp hai anh bạn, cả bọn đang nói chuyện bỗng anh Toàn đến bảo Mai đem 1 triệu đồng để lo chuyện tổ chức cứu trợ 40 gia đình nạn nhân chiến cuộc Bình-Long, đang đến trại tỵ nạn ở Thủ-đức. Anh Toàn nói hơi khó nghe vì sứt môi, Mai đòi vào hội quán Văn uống café anh ừ. Hai đứa em vào gặp vài đứa bạn ở đấy, thấy Lân em chào, Lân cười. Toàn mua mấy chiếc ô mai cho hai đứa, nhưng anh hấp tấp vì không có thì giờ, nên hẹn nhau sẽ đến café "lá- me" (Hân) ở Đa kao. Em chưa đi café với bạn lần nào. Bây giờ có Mai nên em không e ngại nữa. Đến đấy, Mai vừa gọi 2 ly café sữa đá thì thấy anh Tự đi xe bus đến. Em đang còn lạ, anh ta cười hỏi em có nhớ anh ta không? trong nhóm bạn hôm chúng mình đi nghe nhạc Khánh Ly hát ở Dược-khoa đấy. Em cười, anh nhớ hay quá vì hôm ấy hội trường 2 Dược đông người nóng quá, nên em chả nhớ ai cả, vì Khánh Ly tự làm hoạt náo viên rất có duyên, bầu không khí sôi động vô cùng. Anh Tự nói thêm cô ấy khoẻ thật, hát đến gần 30 bài mà vẫn hay và vui vô cùng.
Đang ngồi, chợt thấy một cái kén bướm từ bên bàn kia, tự dưng bay qua bàn em và ngừng trên tà áo trong lòng em với những sợi tơ đẹp vô cùng, làm Mai và Tự cùng bảo thôi tơ đã vương rồi, làm em thẹn đỏ cả mặt. Chợt thấy Tí, bạn trai của em Hương ở ban Sử chạy đến, ngừng xe nhìn bọn này, cười. À, tên nầy mấy hôm nay lo ghê lắm rồi đấy, vì gia đình kẹt ở Đà-lạt đang bị cắt đường. Tội nghiệp. Em ngồi nói chuyện thời sự với Tí, ái ngại cho tình cảnh chung của đất nước. Nhóm bạn Mai ra về, hẹn một chút sẽ cho biết thêm về vụ cứu trợ của nó. Em cũng về, duy có Mai ở lại cùng với nhóm bạn khác ở hội quán Văn gặp lúc nãy ở trường, bây giờ họ cũng đến quán lá-me này nữa, hay thật ! Sao nhóm sv. này có nhiều thì giờ ngồi tán dóc thế nhỉ? có lẽ vì chiến tranh đang gần kề thành phố rồi. Nhưng em không có thì giờ học, kỳ thi này chắc không qua khỏi rồi, hai tháng trước em vẫn nộp đơn đóng tiền thi. Hôm ấy nhờ anh Toàn giúp nên nhanh chóng, nếu không chắc không chen nổi với các sv. khác đang sắp hàng rồng rắn trước văn phòng. Gặp thầy Trung đi ngang, em chào thầy ạ. Thầy cười tươi hỏi em nộp đơn thi đấy à, cố lên nhé.
***
Cho người yêu
Đấy là những ngày sôi động ấy. Như giấc mơ kỳ lạ của em lúc đó.
Anh có bao giờ thấy hạt mưa từ phía dưới ngược lên trời không? Trời ơi! em đã nhìn thấy trong cơn mơ đêm ấy:
Ở khung cảnh trường lớp, bạn bè cũ vui vầy. Và bỗng dưng cơn mưa đổ ào đến. Lạ lùng là hạt nước từ mặt đất dầy mịt lại phun lên. Mưa cứ phun ngược lên như thế mãi.
Khi em tỉnh giấc - bàng hoàng và sợ hãi. Nhớ đến người yêu - em khóc như mơ. Những biến cố trọng đại ngửa nghiêng lịch sử. Nỗi buồn đau cũng ví như nỗi sung sướng - ngang nhau - gần như thế. Để có lúc em lo sợ cuống quýt - em khẩn thiết nguyện cầu. Và có những lúc em bình tâm chìm lặng, dửng dưng với tất cả. . có gì đâu, tất cả rồi sẽ qua - biết đâu đó lại là một cách để giải thoát kiếp đoạ đày nầy. Vì tất cả đều phi lý quá - em chẳng làm gì hết - từ nhỏ và lớn lên ở đất nước này- trong thành phố này, em chưa kịp "sống" - chưa kịp phạm tội. Vậy mà cùng với mọi người em đã run lên vì sợ hãi - em đã chết lặng vì kinh hoàng.
Nhưng này, em có biết em sợ hãi vì đâu không? Ôi, bom chưa thấy nổ, đại bác chưa thấy rơi vào thành phố này- vậy mà quê hương đây đó đã thành địa ngục rồi. Em muốn nhắm mắt lại không thèm đọc nữa, em nhất định không thèm nghe, không thèm biết những gì em trót nhớ, như người ta chạy lao ùa đến máy bay dù để chết. Em cũng không muốn nhớ người ta bắn nhau vu vơ, như người ta dẫm lên xác trẻ con.
Chuyện như thế - không còn là giấc mơ - cuống quýt sợ hãi, rồi không còn gì để sợ hãi nữa. Như gương mặt bình thản của anh từ trong cuộc chiến vẫn trở về thăm em đều đặn. Nhưng đến lần này anh bảo rồi không biết đến bao giờ về thăm em lại nữa?.
Đấy chính là nỗi khoắc khoải của chúng mình. Từng đêm - từng đêm nghĩ đến thảm trạng trước mắt – nhớ đến mối hiểm hoạ rình rập ấy là bắt em lo nghĩ đến người yêu: Đất nước là anh - anh và đất nước. Hai hình ảnh - hai ý thức hệ cùng ray rức - cùng nhắc nhở - cùng cận kề tha thiết.
Như vậy đất nước có là anh không? Hay anh có là đất nước không?
Hôm đi thăm Thu Thuỷ, nó học Sư- phạm Quốc-gia hai năm xong ra trường, bị đổi về Sa-đéc dạy hơn một năm, giờ phải chạy về Sài gòn. Gặp nhau hai đứa mừng vui vô cùng, em cũng gặp bà chị nó hợp "típ" với em. Vì vậy câu chuyện rất thân mật, vui vẻ. Khôi hài là chị ấy cũng trốn sở và chị đang may cái đai sau lưng để đai đứa bé, đề phòng lúc "họ" vào. Cả nhà Thủy bắt em ở lại ăn bò bía. Em ngại ba me mong nên định về, nhưng nghe chị ấy nói chuyện về tình hình đất nước hay quá, em ở lại chơi luôn. Buồn quá, vui được phút nào đỡ phút ấy. Biết đâu ngày mai, ngày kia - tuần sau tuần nữa có còn nhau không? Trời ơi, không ngờ chúng mình cùng phải nghĩ như vậy, phù du quá đỗi, hiện sinh quá đỗi, mà phải đành. Chợt dưng đôi lúc em thấy tiếc nuối không có người yêu bên em lúc này, trong lúc hấp hối của mọi nỗi vui - của mọi hạnh phúc.
Sinh hoạt thành phố cũng thay đổi theo thời cuộc vì chiến tranh đang kề cận, đe dọa hàng ngày, hàng giờ. Thật dị thường, bao lần em định viết mà phải buông bút vì đầu óc lại quay cuồng. Đấy không phải là sự khủng hoảng thể chất, cũng không phải là bản năng bảo tồn sự sống để chống cự, trốn chạy hay chờ đợi - mà chính là một thứ sợ hãi. Em không biết từ nơi nào nó đã ùa ập đến em- một thứ sợ hãi bình lặng. Nó len lỏi khắp châu thân - cái sợ như mở ra một vực thẳm - hư không. . Vì thế những người yêu nhau đã tìm nhau để tựa nương, trong cơn lốc xã hội nhiễu loạn - ghê sợ này.
Chúng mình có sợ - có lo là những bất trắc sẽ xảy ra cho người yêu mình thôi. Nhưng vận nước nghiêng ngửa làm mình buồn - buồn không thể nào nguôi được. Em cảm thấy hình như có một sự thay đổi to lớn nào đó và dân mình càng đi dần xuống hố đen - vực thẳm.
Và hai chúng mình sẽ như Graber và Elisabeth của Remarque trong "Một thời để yêu và một thời để chết" mà anh mới đưa em đọc. Nếu được như vậy, quả là sung sướng biết bao - và hạnh phúc là hạnh phúc trong cơn bi đát này??
Đến hôm dạy sử cho học trò lớp đệ tam - bài vua Quang-Trung đại phá quân Thanh, em bỗng xuất thần nói không ngừng nghỉ. Càng nói càng say và mắt rưng sầu, để bọn học trò sắp đến tuổi động viên cũng rười rượi:
– Làm sao có một Quang-Trung để thống nhất đất nước đây, các em??
***
Đổi thay
Đầu tháng tư đen. Một buổi chiều Mai đến nhà em, nó đi ngõ sau vì nhà nó cách không xa. Mai buồn rầu vì người yêu hẹn đến bẩy năm sau mới cưới. Hai đứa đang còn nói chuyện thì anh Kỳ trong ban đại diện đến tìm nó. Em chả biết chuyện gì, đang hoang mang thì Mai đi vào nhà bảo tướng Trưởng chết rồi, và nước mắt nó chảy quanh. Em kêu lên nguy rồi, vậy là Sai-gòn sửa soạn đón VC vào. Mai bỏ về lập tức, nhưng nó lại cười đau đớn. Hình ảnh nó ngồi sau xe đạp của Kỳ như hình ảnh cô gái Huế gầy gò, ngồi sau xe đạp người yêu chạy trên phố Huế, trong chuyện của Nhã-Ca đẹp vô cùng.
Buồn - đất nước tan hoang hết rồi. Trung-tướng Ngô-quang-Trưởng người hùng địa đầu giới tuyến quân khu 1 đã tự sát - còn gì hy vọng nữa đâu? Tin đen tối ấy như tiếng sét đánh ngang tai, làm sao đây nếu Sài-gòn lâm vào vũng bùn ấy? Chết thôi.
Mấy hôm sau me đi chùa về, cũng kể chuyện gia đình tướng Trưởng trong nhóm bạn đạo của me, cúng cầu siêu ở chùa, mắt ai cũng đỏ hoe (1).
Vậy mà bé Hà đi học về kể rằng tụi bạn nó bảo đức mẹ Fatima nói nửa tháng nữa VC sẽ vào S.G. và tàu Tây Đức sẽ mang dân mình về Đức ở.
Thật bàng hoàng dù là tin của con nít, vì bây giờ ở đâu cũng bàn tán chuyện đất nước, ngay đến con nít cũng vậy. Em nghĩ bi đát quá, nếu dân mình phải bỏ nước ra đi – đi như vậy là mất nước, là mất quê hương rồi!!
Những ngày ấy đến trường V.K. thầy chỉ nói chuyện chạy loạn, tản cư rồi thầy cho cả bọn nghỉ học, vì cour siêu-hình đám s. v. quên không mang theo. Em và Mai đạp xe đèo nhau lang thang ngoài phố. Nó đạp qua khu café Lys ở đường Phan đình Phùng, Hai bà Trưng xem có bạn bè tụi nó kéo vào không. Đến đấy chả có mống nào cả, bèn ra phố đi rong. Đường vẫn đông, nhưng khu thương xá Crystal thì dẹp bớt vài hàng – nghe động tịnh là run rồi. Hai đứa đi lựa sách solde mà không mua. Ghé nhà Trọng không gặp, đói bụng vào ăn bánh cuốn Đình gần đấy. Vừa ăn hai đứa vừa bàn nhau, chuyện VC mà vào SG. thì sẽ không còn ăn ngon như thế này nữa đâu. Nhớ đến cảnh đau thương tản cư này thấy buồn làm sao, nhưng hai đứa lại ăn thêm một đĩa nữa làm Mai cười sặc sụa, em cũng ôm bụng cười. Và chung quanh chắc mọi người đều ngạc nhiên vì thấy sao hai đứa như vui quá? Trời ơi! Cười trong nỗi buồn mất nước. Nó bảo có một gia đình định khi VC vào thì cả nhà sẽ cùng lên xe, lao xuống sông để chết hết...
Thế mà mới cách đây hơn nửa tháng, nó còn hy vọng bảo sang năm tao ứng cử phó chủ tịch ngoại vụ, mầy làm partenaire cho tao, nếu ban đại diện tao đắc cử. Em cũng đùa, nếu mày ứng cử như thế, thì bọn tao đã đám cưới rồi và sẽ dắt con theo bỏ 3 phiếu cho mầy luôn nhé.
Bây giờ, tất cả đều là hư vô, cả hai cười cay đắng, vì biết còn sống đến ngày ấy không? Lúc đi ngang Tạ-thu-Thâu nhìn tiệm bán hàng, người mẫu mặc bộ áo ấm đẹp quá làm 2 đứa buột miệng rằng Đà lạt không còn, thì mua mặc đi đâu? Mai nói tức thật, nhiều khi muốn chửi thề, tao với ông Kỳ gặp nhau là bàn tán là chửi.
Nhưng rồi ăn ngon quá và no quá – tuổi trẻ vui được đôi chút – chỉ hơi buồn vì không có người yêu cùng ăn. Lúc tính tiền, họ quên tính 1 đĩa làm hai đứa mừng khoái chí, nhảy nhót vui thú. Ôi, hạnh phúc quá bất chợt và nhỏ bé dị thường. Đi uống nước mía gần đấy, em bảo ê! mầy xem ông Tàu kia mặt buồn sưng như cái mâm vì ế. Mai cười sặc sụa, phun cả nước mía ra ngoài.
Hai đứa lại đèo nhau về, ngang nhà nhỏ Quý. Những khi Mai buồn chuyện tình, thường cậy nhờ Quý bói bài mong có hy vọng nào đó chăng? Đến nhà nó, Mai rụt rè vì ngại nhưng em vẫn bình tĩnh gọi Quý ra. Hình như lúc sau này em không sợ gì nữa hết, thật đĩnh đạc và tự tin ở mình vô cùng. Phải chăng gần kề nỗi sợ hãi thì con người bỗng sáng suốt bình thản ra?
Quý có lối nói chuyện thật buồn cười và vô tư, làm mình vui được vài phút. Cả ba đứa lại bàn về tình hình, nó cũng lo sợ và buồn rầu vì ba nó thầu rác sở Mỹ, cả nhà nó sẽ phải ra đi thôi. Nhưng nó lại rất can đảm và hy sinh, chịu ở lại một mình vì còn người yêu. Nó hơn em là đôi khi cố quên để vui được một ngày thì đỡ buồn một ngày, em khen nó giỏi.
Rồi hẹn nhau chủ nhật cả bọn sẽ gặp lại.
Về nhà, đường còn đông xe dù gần 8 giờ tối. Có phải mọi người cũng như mình? sợ ngày mai không còn nữa, phải cố sống cho trọn ngày nào hay ngày ấy!!
Những ngày ấy Liên Anh – đứa bạn thân yêu từ lớp đệ thất T.V., cũng chạy về S.G.. Cứ cách một ngày là nó đến nhà tìm em thì thào nói chuyện. Gần ngày cuối, nó rủ đến nhà ăn bún thang, do chị em nó nấu đãi. Em ở chơi với các chị em Liên Anh cả ngày thật vui vẻ, dù rằng biết bọn mình sẽ bị thay đổi. Gần về nó mới tiết lộ bí mật, rằng khuya nay cả nhà nó sẽ được anh Trí của nó bốc đi di tản qua Mỹ, tiếc rằng nó rất đẹp mà chưa có người yêu, chỉ có một anh bạn thôi, anh ta cũng xin đi theo. Và bạn trai của em Vân nó cũng được cho đi nốt. Còn em thì buồn vô cùng, vì biết mình không thể bỏ tất cả để đi theo nó, để trốn chạy ngày đen tối sắp đến này được. Mẹ nó nói đùa, thế thì cháu ở lại giữ nhà hộ bác nhé.
Và rồi cả nhà nó đi hết. Đến mãi sau này em mới nhớ ra rằng mình buồn quá nên quên đưa địa chỉ nhà cho nó, vì hai đứa đến nhà nhau hằng bao năm trời mà có biết rõ ràng tên đường, số nhà để gởi thư đâu!!
***
Ôi, nào ngờ đâu đến năm năm sau chính em và anh đã ôm con còn quá bé bỏng, bỏ nước ra đi trong một đêm mù mịt - kinh hoàng - mà không biết mình sẽ sống hay chết!! Chỉ biết rằng mình đang lênh đênh và cần một bến đỗ thôi...
Lê thị Thanh Tâm
_______
(1) Tin về trung tướng Ngô quang Trưởng tự sát là do phía CS tung ra. Sau này đọc trong quyển "Lược Sử QLVNCH" của Trần-ngọc-Thống, Hồ-Đắc-Huân, Lê-đình-Thụy thì ngày 13-3-75 ông hội kiến với TT Ng. v. Thiệu nhận mật lịnh triệt thoái khỏi quân đoàn I. Ngày 29-3-75 từ Đà -nẵng ông di tản theo Hải Vận Hạm Lam-Giang và Hương-Giang HQ. Vào Cam-ranh và cập bến Bạch-Đằng vào đêm 31-3-75. Lúc ấy có các Phó Đô-đốc Chung Tấn Cang, trung tướng Lê-nguyên-Khang, Chuẩn tướng Ng-V-Chức đưa ông về Tổng Y-viện Cộng-Hòa dưỡng bệnh. Sáng ngày 29-4-75 tại bộ Tổng-tham-mưu ông lên trực thăng của Thiếu-tướng Nguyễn-cao-Kỳ bay ra biển Đông, và đáp xuống Hàng-không-mẫu-hạm Midway Hoa-kỳ. Sau đó chuyển qua trực thăng bay sang chiến hạm Blue Ridge, Soái hạm của Tư-Lệnh Đệ-Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ và ngày 30-4-75 ông định cư tại Springfield Virgina, HK. Năm 2007 ông từ trần, hưởng thọ 76 tuổi.