Phạm Ɖình Lân


Ɖại tộc Bò Sát

.

“Tụi ‘Bò Sát’ là tụi nào mà xưng là Ɖại Tộc Bò Sát?”,  một đại diện động vật hỏi.

“Tụi nó sống đông đảo trên khắp các lục địa trên hoàn vũ. Dòng họ chúng gồm những thằng bé nhỏ như Trùn Ɖất (Ɖịa Long) đến những ‘bác’ to lớn vĩ đại như rồng Komodo. Có loại Bò Sát có chân khi đi bò sát mặt đất hay trên cành cây. Trùn, Rắn, Trăn không có chân nên khi di chuyển họ uốn mình sát mặt đất. Cóc, Ếch, Nhái, Rùa, Sấu, Tắc Kè, Thằn Lằn, Cắc Ké, Kỳ Nhông, Kỳ Ɖà, Rồng Komodo đều là loài Bò Sát. Tụi nó đông lắm ông ơi!”, một đại biểu động vật khác đáp.

Ɖại tộc Bò Sát có hai dàn nhạc lớn hỗ trợ. Ɖó là dàn nhạc Rana của Pháp và dàn nhạc Pachong Lei của Trung Quốc. Rana là Ếch. Pachong Lei có nghĩa là Loài Bò Sát. Họ dùng đủ loại nhạc cụ tân, cổ và dân tộc như dương cầm, vĩ cầm, Tây Ban cầm, đàn cò, đàn tranh, đàn tỳ bà, kèn, trống, chập chỏa vang động cả một góc trời trên luc địa Phi Châu nóng bức.

Ban nhạc Rana đề nghị trình tấu bản Thần Kim Qui do một nhạc sĩ Miết Giáp (1) quê quán ở Hà Tiên sáng tác. Nhạc trưởng dàn nhạc Pachong Lei bác bỏ đề nghị nầy nhưng không nói rõ tại sao?

Các ca sĩ Ếch, Nhái, Cóc, Ảnh Ương, Chàng Hiu bất mãn nhạc trưởng dàn nhạc Pachong Lei. Họ đồng ca bài Cây Nỏ Thần hùng tráng giữa tiếng trồng và kèn vang dội của dàn nhạc Rana. Cả hội trường như chứng kiến sự tấn công vũ bão  của quân Chao To (Triệu Ɖà) và sự phản công dũng mãnh của quân Âu Lạc vỏn vẹn chỉ bằng cái nỏ thần do Thần Kim Qui trao tặng. Hội trường vang dội tiếng vỗ tay và giậm chân ầm ĩ. Bản nhạc Cây Nỏ Thần vừa dứt, một hoạt náo viên hỏi dò các đại biểu về thứ bậc của loại Bò Sát dựa vào câu nói thường nghe ở Việt Nam:

Cắc Ké là mẹ Kỳ Nhông.

Kỳ Nhông là ông Kỳ Ɖà.

Kỳ Ɖà là bà Cắc Ké.

Câu đố chưa được trả lời thì có tiếng kèn của nhạc sĩ Ảnh Ương thông báo đại diện Ɖại Tộc Bò Sát đến. Ɖó là một lão Cự Ɖà Iguana từ Trung Mỹ đến. Mắt lão màu đỏ-xanh, lưng có sống gai trông dữ dằn. Chân đầy móng vuốt dài và nhọn. Lão cuối đầu chào đại biểu các tộc động vật rồi bắt đầu đọc bài tham luận về Ɖại Tộc Bò Sát trên Ɖịa Cầu.

***

Trân trọng kính chào toàn thể đại biểu động vật hiện diện trong Quốc Tế Ɖộng Vật Hội Nghị hôm nay. Tôi là trưởng lão Cự Ɖà Iguana từ Mexico đến. Tôi được sự ủy nhiệm của Ɖại Tộc Bò Sát trên Trái Ɖất để đọc tham luận về Ɖại Tộc Bò Sát.

Ɖộng Vật Bò Sát chúng tôi có những đặc tính chung như sau:

Trước khi đến đây bằng đường hàng không mua vé hàng hóa rẻ tiền, chúng tôi có ghé thăm lão Phạm Ɖình Lân để tham khảo với lão về các báo cáo của các tộc động vật. Hỏi về các động vật Bò Sát, lão nói có báo cáo của Thiềm Thừ và Ngạc Tộc. Lão có sơ thảo tham luận của Xà Tộc và Qui Tộc. Theo lịch trình thì hai tộc nầy còn lâu lắm mới đọc tham luận, Ɖó là hai tộc Bò Sát cao sang được cộng đồng động vật quốc tế nể trọng. Qui tộc nằm trong Tứ Linh (Long, Lân, Qui, Phụng) và trong số Ɖề. Xà tộc có tên trong 12 con giáp và số Ɖề 40 con. Xà tộc nằm trong danh sách Tứ Hùng Ɖộng Vật (Ɖiểu, Xà, Ngư, Tượng). Xà tộc và Qui tộc là hai tộc Bò Sát danh vọng và quyền uy. Theo lời của lão họ Phạm, chúng tôi chỉ nói về Cự Ɖà Iguana, Tắc Kè, Thằn Lằn, Cắc Ké, Kỳ Nhông, Kỳ Ɖà, Rắn Mối và một giống động vật Bò Sát Tuatara ở Tân Tây Lan là đủ rồi.

CỰ ƉÀ IGUANA

Kỳ Nhông
Iguana Iguana
Gia đình: Iguanidae

(Ảnh:https://nl.123rf.com/  và https://www.licg.nl/)

Cự Ɖà Iguana là một loại Cắc Ké to lớn được tìm thấy nhiều ở Mexico, các hải đảo trong biển Carribean, các quốc gia Nam Mỹ, Texas, Florida, Hawaii (Hoa Kỳ).

Tên khoa học của Cự Ɖà Iguana là Iguana Iguana thuộc gia đình Iguanidae. Tên gọi thông thường:

Quốc gia

Tên gọi

Anh

Iguana

Tây Ban Nha

Iguana

Nhật

Iguana

Pháp

Iguane

Trung Hoa

Lie Xi

Việt Nam

Cự Ɖà, Kỳ Nhông

Có 30 loại Cự Ɖà Iguana sống ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, hai đảo trong biển Caribbean, Texas, Florida, Guam, Hawaii v.v..

Cự Ɖà Iguana có hình dáng của Cắc Ké. Các anh Cự Ɖà to lớn, có chiều dài  và trọng lượng cao hơn các chị. Cự Ɖà có vảy nhỏ và cứng. Người ta nói các anh chị ấy có đệ tam nhãn trên trán. Trên sống lưng và đuôi các anh Cự Ɖà Iguana có gai tua tủa bén và nhọn như kim!

Các anh chị Cự Ɖà Iguana mặc quần áo xanh. Màu xanh trên đầu đậm hơn màu xanh trên mình. Màu quần áo của các chị Cự Ɖà nhạt hơn.

Răng các anh chị ấy rất bén, có thể cắn đứt thịt người. Các anh chị Cự Ɖà Iguana sống trên cây trong vùng khí hậu nhiệt đới hay đại dương. Thức ăn của các anh chị Cự Ɖà rất đa dạng: trái cây rừng, rau cải, hoa dại, động vật không xương sống và cả Ɖiểu tộc nữa.

Cự Ɖà chúng tôi có nọc độc nhưng không đến nỗi gây tử vong cho người bị Cự Ɖà Iguana cắn.

Cự Ɖà nam cân nặng và dài hơn Cự Ɖà nữ. Trung bình chiều dài của Cự Ɖà là 40 - 60 cm và cân nặng từ 1,5 - 3 kg. Cự Ɖà to lớn nhất dài 2m và cân nặng trên 9 kg.

Cự Ɖà Iguana đẻ trứng. Trứng dài lối 7 - 8cm. Tuổi yêu đương của Cự Ɖà Iguana lối 2 - 3 tuổi. Ɖôi khi tộc Cự Ɖà có tuổi yêu đương sớm hơn. Mùa ái ân thường là mùa khô ráo. Luôn luôn có những cuộc giao đấu bạo tợn giữa các nam Cự Ɖà. Loài người gọi đó là chế độ đa thê. Chúng tôi cho đó là kết quả của luật THẮNG-THUA, MẠNH ƉƯỢC-YẾU THUA. Thắng thì được hưởng tất cả. Thua thì bị mất tất cả.

65 ngày sau cuộc ái ân các chị lo đào một hố sâu lối 1m để làm ổ chứa từ 30 - 60 trứng khá to. Trứng nở ra con sau 70 - 105 ngày ấp dưới hố đất.

Bộ phận sinh dục của nam Cự Ɖà gồm có hai bán dương vật (hemipenes). Khi giao cấu, tinh trùng của nam Cự Ɖà bắn vào nữ Cự Ɖà để tạo sự thụ thai. Một số tinh trùng được lưu giữ một thời gian để các chị tiếp tục sinh sản mà không cần phải ái ân với các nam Cự Ɖà.

Cự Ɖà Iguana bị giam giữ trong các sở thú có thể sống đến 20 năm. Trong trạng thái thiên nhiên tuổi thọ của Cự  Ɖà không cao. Cự Ɖà là mồi của Chim Ưng và các động vật ăn thịt sống khác kể cả loài người. Ɖó là một nguồn lương thực quan trọng đối với các dân tộc miền nhiệt đới, bán nhiệt đới và đại dương.

Ở Hawaii việc buôn Cự Ɖà bị cấm chỉ. Người vi phạm bị ngồi tù 3 năm và trả $200.000 tiền phạt.

Các nhà dinh dưỡng học của loài người nói Cự Ɖà có nhiều thịt và protein góp phần dinh dưỡng cho loài động vật hai chân ốm như cây sậy nhưng biết suy tưởng!

Các nhà vi trùng học cho rằng Cự Ɖà Iguana mang vi trùng salmonella cho loài người. Vi trùng nầy gây tiêu chảy, sốt, ớn lạnh, sốt thương hàn v.v.

THẰN LẰN

Hemidactylus frenatus
Gia đình: Gekkonidae

(Ảnh: https://www.heevis.nl/)

Thằn Lằn là loại Bò Sát trong nhà. Vì gần gũi với loài người nên Thằn Lằn có nhiều tên gọi thông thường. Tên khoa học của Thằn Lằn là Hemidactylus frenatus thuộc gia đình Gekkonidae. Tên gọi thông thường là:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

Thằn Lằn, Thạch Sùng (tên đại phú gia Trung Hoa mất của),
Bích Hổ (theo cách gọi của người Trung Hoa, có nghĩa là Cọp Tường)

Anh

House gecko (Cắc Kè nhà), Moon lizard, House lizard, Wall gecko

Pháp

Margouillat

Tây Ban Nha

Gecko de la casa

Trung Hoa

Bihu

Nhật Bản

Yamori

Nhiều tài liệu cho rằngThằn Lằn gốc ở Ɖông Nam Á. Loài Bò Sát nhỏ bé nầy được tìm thấy nhiều ở các vùng khí hậu nhiệt đới, bán nhiệt đới, đại dương nhiều hơn vùng khí hậu ôn và hàn đới.

Thằn lằn dài từ 7 - 15cm tính từ đầu đến đuôi. Thằn Lằn mặc quần áo xám, xám-đen hay quần áo trắng (Thằn Lằn Bạch). Bốn chân nhỏ. Mỗi bàn chân có 5 ngón. Thằn Lằn không có vảy như Cắc Kè. Bụng nhám nên chạy trên vách tường, trần nhà một cách dễ dàng.

Thằn Lằn sống trong nhà, các bộng cây. Trong nhà Thằn Lằn thường xuất hiện trên tường khi có ánh sáng của đèn điện. Trong các loài Bò Sát các anh chị Thằn Lằn phần lớn được xem là động vật thành thị gần gũi với loài người nhiều hơn cả. Các anh chị ấy ăn Mối, Kiến, Nhện con trong nhà. Các anh chị Thằn Lằn cũng giúp ích rất nhiều cho loài người trong các đồn điền trồng dừa. Vậy mà ở Hoa Kỳ không thấy bóng dáng của các anh chị Bích Hổ.

Các chị Thằn Lằn lên 6 hay 12 tháng tuổi đã bắt đầu yêu đương. Các chị rất quí phái nên sinh sản không nhiều: 1 hay 2 trứng vùi dưới đất hay lá cây. Ở vùng khí hậu lạnh Thằn Lằn không đẻ trứng vào mùa đông. Sau cuộc ái ân các chị mang thai. Một số tinh trùng được tồn trữ trong thời gian nhất định. Các chị mang thai, đẻ trứng mà không cần đến sự ái ân với các nam Bích Hổ.

Kẻ thù của Thằn Lằn là Mèo, Chuột, Tắc Kè, Gà, Nhện to v.v..

Tuổi thọ của Thằn Lằn lối 8 năm trong trạng thái bị loài người giam cầm, được ăn uống và chăm sóc thuốc men đầy đủ. Tuổi thọ nầy ngắn hơn trong trạng thái hoang dã. Trong trạng thái hoang dã Thằn Lằn được tự do đi đó đây trong một vũ trụ vô biên cương. Bù lại cũng có nhiều thứ tự do bất lành khác như tự do thiếu ăn, tự do bệnh tật, tự do bị các loại động vật khác đe dọa ăn tươi, nuốt sống, nghĩa là tự do chết!

Tộc Bích Hổ được loài người thêu dệt lắm chuyện hấp dẫn. Nào là Bích Hổ khi sợ thì giả đò chết như người Pháp nói: Quand il a peur, le margouillat fait semblant d’être mort (Khi sợ Thằn Lằn giả vờ chết). Mấy anh chàng Việt Nam thì nói: “Thằn Lằn cụt đuôi!”. Nhưng có sao đâu! Thằn Lằn cụt đuôi thì có đuôi mới mọc ra.

Bích Hổ học võ của sư phụ nào, môn phái nào mà trèo tường, bò trên trần nhà dễ dàng vậy? Từ trần nhà té xuống sàn, Bích Hổ không bị tắt thở mà còn chạy một cách thong thả. Các thầy nghề võ và thầy thuốc cần đầu tư suy nghĩ và nghiên cứu về những chuyện thường thấy trong gia đình Bích Hổ.

Tiếng chắt lưỡi của Bích Hổ làm cho loài người chia rẽ nhau. Người thì cho đó là điềm xui của anh chàng đại gia Thạch Sùng (Shih Chong) chắc lưỡi vì tiếc của. Người thì cho đó là điềm lành. Theo tiếng Bengali ‘Tik, tik, tik’ có nghĩa là ƉÚNG! ƉÚNG! ƉÚNG!” Những người khó ngủ không ưa tiếng chắt lưỡi  của Bích Hổ.

Người Việt Nam tin vào chuyện xưa tích cũ Trung Hoa, cho rằng Thằn Lằn là hồn của anh chàng đại gia kênh kiệu tên Shih Chong (Thạch Sùng). Anh chàng nầy tự hào rằng anh có tất cả những gì có trên Trái Ɖất nầy. Anh ta ngông nghênh thách rằng anh sẽ mất hết gia tài cho ai chỉ ra một vật gì mà anh ta không có. Một anh nhà nghèo nào đó hỏi Thạch Sùng (Shih Chong) có mẻ kho mà anh thường dùng ở nhà hằng ngày hay không? Ɖó là vật mà đại gia Shih Chong không có mặc dù anh ta có nồi, chảo, ấm nước nấu bằng vàng, bạc, đồng, thau hay đất quí nhưng không có mẻ kho. Thế là anh mất gia tài. Anh thua buồn và chết và hồn nhập vào Bích Hổ. Lâu lâu anh chắc lưỡi ‘tik, tik, tik’ vì tiếc của

Loài người làm chuyện khiến chúng tôi bối rối rồi tự hỏi:

Bích Hổ có trước Shih Chong (Thạch Sùng) hay đợi Shih Chong chết mới có Bích Hổ?

Nếu Bích Hổ có trước từ lâu, vậy trước khi Shih Chong chết, Bích Hổ có tắc lưỡi “tik, tik, tik’ không?

Trong Ɖông Y người ta dùng Thằn Lằn sấy khô tán thành bột để làm thuốc trị suyễn, cước khí, kinh phong, lao hạch.

Trong thực vật học có cây Thằn Lằn, tức cây Sung Long hay nôm na là cây Xộp mang tên khoa học Fiscus pumila.

CÁP GIỚI (TẮC KÈ)

Gecko Gecko
Gia đình: Gekkonidae

(Ảnh:  https://www.monaconatureencyclopedia.com/)

Người Việt Nam gọi các anh chị mang tên khoa học Gecko Gecko thuộc gia đình Gekkonidae là ‘Tắc Kè’, âm thanh tiếng kêu của các anh chị ấy.

Giống như Bích Hổ, các anh chị Tắc Kè là loài Bò Sát sống trong nhà. Bích Hổ thích ánh sáng. Tắc Kè thích bóng tối. Ngoài thiên nhiên các anh chị ấy sống trong các hốc đá, vách núi, trên các bộng cây. Tên gọi thông thường của các anh chị Tắc Kè là:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

Tắc Kè (Cắc Kè), Ɖại Bích Hổ, Cáp Giới (Hán-Việt)

Anh

Gecko

Pháp

Gecko

Tây Ban Nha

Geco

Trung Hoa

Ge Jie (Cáp Giới)

Nhật

Gekko

Cáp Giới (Tắc Kè) dài từ 30 - 50 cm, cân nặng từ 0,5 đến 1,5 kg. Anh chị Cáp Giới mặc quần áo bông có đốm đỏ trông dễ sợ. Màu quần áo của động vật Bò Sát nầy có thể thay đổi để thích ứng với màu sắc của môi trường bao quanh. Bàn chân của các anh chị Tắc Kè rất nhám nên các anh chị ấy trèo cây, trèo tường, trần nhà dễ dàng như các anh chị Bích Hổ.

Tắc Kè được tìm thấy nhiều ở Nam Á, Ɖông Nam Á, Trung Mỹ, Nam Mỹ, các hải đảo Thái Bình Dương v.v.. Các anh chị ấy thích ứng với mùa lạnh ở các vùng ôn đới rất tốt như nhịn đói cả mùa đông vẫn không chết! Tắc Kè không sống ở Nam Băng Châu.

Tắc kè Tokay gecko ở Việt Nam (Ảnh:  https://vi.wikipedia.org/) và Tắc Kè Báo (Ảnh https://www.tieranzeigen.com)

Tắc Kè hoạt động ban đêm. Ban ngày mắt Tắc Kè bị lòa. Tắc Kè thường liếm mắt cho mắt sạch và ướt. Tắc Kè ăn Dế, Mối, Nhện, Chuột nhỏ và các loại Côn Trùng khác.

Tắc Kè Báo (Leopard gecko) trong trạng thái giam cầm có thể sống từ 10 đến 20 năm. Có anh Tắc Kè Báo trên 27 tuổi đời vẫn còn làm công tác truyền giống. Ɖó là tộc Tắc Kè có tuổi thọ cao được ghi nhận.

Tắc Kè là động vật máu lạnh, đẻ trứng (không nhiều). Tắc Kè không có nọc độc.

Tiếng kêu của Tắc Kè rất mạnh. Ɖiều đó cho thấy phổi của Tắc Kè rất mạnh. Trong Ɖông Y có thang thuốc Cáp Giới dùng Tắc Kè làm thuốc bổ thận, bổ phổi. Ở các nước Ɖông Nam Á, nơi có nhiều cộng đồng người Hoa, người ta mua Tắc Kè để ngâm rượu Tắc Kè uống hầu được bổ thận cường dương. Vì vậy khi ngâm rượu, người ta ngâm một nam và một nữ Cáp Giới. Tắc Kè ngâm rượu đều bị khoét mắt sau khi bị thui đốt. Vì chuyện nầy mà Cáp Giới tộc trên đường tuyệt chủng khiến chánh phủ của vài nước Ɖông Nam Á ra lịnh trừng phạt người săn ruồng và bắt các anh chị Cáp Giới để làm thuốc hay ngâm rượu bổ phế và tráng thận cường dương. Không biết kết quả của những lịnh ngăn cấm nầy ra sao, chỉ biết rằng dân số Cáp Giới tộc càng ngày càng giảm rất nhiều.

Trong huyền thoại Hy Lạp có chuyện nữ Thần nông nghiệp và thu hoạch hoa mầu Demeter mệt lử khi đi tìm con gái là Persephone, con của bà với Thần Zeus, anh của bà. Nữ Thần vào nhà một nữ nông dân tên là Mismo Atita và đươc tiếp đãi nồng hậu. Nữ Thần  Demeter đuối sức vì quá khát nước. Người nữ nông dân trao cho bà một bình nước to. Vì quá khát nước, bà uống sạch thùng nước trong một hồi. Con của Mismo là Ascabalus hay Abas chế nhạo cách uống nước của nữ Thần Demeter. Bà nổi giận tạt vài giọt nước vào mặt Ascabalus và biến cậu thành một nam Cáp Giới thân có nhiều đốm đỏ trông ghê rợn.

Ngày xưa ở Ai Cập người ta xem Tắc Kè như vật tổ. Trái lại Thánh Kinh Do Thái xem động vật Bò Sát chúng tôi là ma quỉ không thanh sạch. Trong sách Leviticus 11:30-40 có đề cập đến Tắc Kè, Cắc Ké, Kỳ Ɖà, Kỳ Nhông, Thằn Lằn nhưng không có một từ nào ca ngợi hay đề cao những thành viên cao quí của Ɖại Tộc Bò Sát cả.

KỲ ƉÀ

Varanus varius
Gia đình: Varanidae

(Ảnh: https://nl.dreamstime.com/)

Kỳ Ɖà là bà con gần của Rồng Komodo. Các anh chị Kỳ Ɖà có hình dáng giữa Sấu + Cắc Kè. Kỳ Ɖà nhỏ hơn Sấu nhưng lớn hơn Cắc Kè rất nhiều. Kỳ Ɖà không có gai trên sống lưng.

Kỳ Ɖà được tìm thấy nhiều ở các vùng Nam Á, Phi Châu, Ɖông Nam Á, Trung Hoa, nam Nhật Bản, hải đảo Thái Bình Dương và bắc Úc. Các anh chị ấy sống trên cây hay trong các vùng đất ẩm ướt có sông, suối hay bờ biển. Kỳ Ɖà to lớn có thể dài đến 2m và cân nặng 14kg.

Tên khoa học của Kỳ Ɖà là Varanus varius thuộc gia đình Varanidae. Tên gọi thông thường là:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

Kỳ Ɖà

Anh

Monitor lizard, Varanid

Pháp

Lezard moniteur

Tây Ban Nha

Monitor lagarto

Nhật

Tokago o kanshi suru

Trung Hoa

Ju xi

Trông tướng Kỳ Ɖà không bạo tợn như Sấu, không hùng hổ như Cắc Kè đầu xanh hay đầu đỏ nhưng Kỳ Ɖà có nọc độc khi cắn.

Ɖuôi Kỳ Ɖà là võ khí của các anh chị tộc ấy. Ɖuôi dài bằng 1,5 (thân hình + đầu) của Kỳ Ɖà.

Tuổi yêu đương của Kỳ Ɖà bắt đầu khi Kỳ Ɖà được độ 40cm. Nam Kỳ Ɖà dài và nặng cân hơn nữ Kỳ Ɖà. Trong mùa ái ân của tộc Kỳ Ɖà xảy ra những cuộc đấu đá tranh giành người yêu. Nhiều anh bị thương tích trầm trọng. Có anh bị tử vong. Sau cuộc ái ân các chị Kỳ Ɖà mang thai và sinh ra từ 8 - 12 trứng. Trứng được che dấu trong hố đất do các chị Kỳ Ɖà đào.

Kỳ Ɖà ăn Sâu Bọ, loài Bò Sát, Chim, trứng Chim, Gà, Vịt, trứng Gà, trứng Vịt. Thức ăn ưa thích của Kỳ Ɖà là xác động vật chết sình thối. Vì vậy Kỳ Ɖà bị liệt vào động vật không thanh sạch trong sách Leviticus của Cựu Ước Kinh.

Ở Úc tộc Kỳ Ɖà bị chó Dingo uy hiếp.

Kỳ Ɖà mang tên khoa học Megalania prisca hay Varanus priscus dài đến 6m đã tuyệt chủng. Hiện nay Rồng Komodo Varanus komodoensis còn sống sót dài từ 3 - 4m. Rồng Komodo được tìm thấy nhiều ở Indonesia.

Rồng Komodo (Ảnh: https://nl.pinterest.com/)

Ở Việt Nam mgười ta tin rằng mật Kỳ Ɖà chữa hết bịnh suyễn và viêm phế quản. Không thấy họ giải thích chuyện nầy dựa trên cơ sở khoa học. Cũng không nghe các thầy thuốc Tây Y đề cập đến chuyện nầy.

Chúng tôi chỉ nghe người Việt Nam gọi những người bàn ra tán vào để ngăn cản một việc làm nào đó là KỲ ƉÀ CẢN MŨI. Những người chèo thuyền trên sông nước tin rằng gặp Kỳ Ɖà Cản Mũi thì xui xẻo, hỏng việc hay gặp sóng to, gió lớn nguy hiểm.

RẮN MỐI

Mabuya nigropunctata
Copeoglossum nigropunctatum
Gia đình: Scincidae

(Ảnh: http://www.wildherps.com/)

Rắn Mối nằm trong đại tộc Bò Sát có hình dáng, chiều dài và trọng lượng như Cắc Ké (Chameleon) nhưng được gọi là Rắn vì có mỏ, lưỡi và bộ quần áo láng màu đen viền trắng hay vàng nhạt như đồng. Vảy của Rắn Mối không nhám, sần sùi như vảy Cắc Ké mà láng như vảy Rắn.

Rắn Mối được tìm thấy nhiều ở Nam Mỹ, dọc theo thung lũng sông Amazon, các nước Ɖông Nam Á, Nam Âu, Trung Ɖông, hải đảo Thái Bình Dương và Ấn Ɖộ Dương v.v.. Rắn Mối hiền hòa hơn Cắc Ké. Khác với Cắc Ké, Tắc Kè, Thằn Lằn, Rắn Mối sinh con (viviparous) chớ không đẻ trứng. Rắn Mối không có nọc độc.

Rắn Mối được liệt vào loài ăn tạp.

Tên khoa học của Rắn Mối là Mabuya nigropunctata thuộc gia đình Scincidae. Tên gọi thông thường là:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

Rắn Mối

Anh

Coppery mabuya, Black-spotted skink

Tây Ban Nha

Mabuya cobriza

Trung Hoa

Tong Zhi hei bu ya

Rắn Mối là một nguồn thịt ngon. Thịt trắng và có huơng vị như thịt Cá Lóc. Ngày nay ở Việt Nam có nhiều trại nuôi Rắn Mối để cung cấp cho các nhà hàng. Món ăn Rắn Mối hiện được thực khách hoan nghinh.

CẮC KÉ

Chamaelo chamaeleon
Gia đình: Chamaeleonidae

(Ảnh: https://www.monaconatureencyclopedia.com/và https://commons.wikimedia.org/)

Cắc Ké là loại Bò Sát có vóc dáng dễ nhìn. Ɖịa bàn của các anh chị Cắc Ké là các vùng nhiệt đới Mỹ Châu, Ɖông Nam Á, Nam Á, vùng khí hậu đại dương như các hải đảo Thái Bình Dương, Ấn Ɖộ Dương, Ɖịa Trung Hải. Cắc Ké nam có gai trên sống lưng, mắt xanh hay đỏ trông uy vệ, hiếu chiến, hiếu thắng với bề ngoài đầy vẻ gây hấn.

Tên khoa học của Cắc Ké là Chamaeleo chamaeleon thuộc gia đình Chamaeleonidae. Tên gọi thông thường là:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

Cắc Ké

Pháp

Caméléon (♂), Caméléonne (♀) (2)

Anh

Chameleon

Tây Ban Nha

Camaleon

Nhật

Kamareon

Trung Hoa

Bian se long

Chữ CHAMELEON xuất phát từ chữ Hy Lạp KAMALEON có nghĩa là Sư Tử Ɖất (Kama: đất, Leon: Sư Tử). Ɖó là một cái tên rất khua chớ không thấp hèn như tên gọi Cắc Ké.

Chiều dài từ đầu đến đuôi Cắc Ké xê dịch từ 20cm đến 40cm. Các chị Cắc Ké to lớn hơn các anh. Màu quần áo của các anh chị nhạt hơn của các anh. Màu quần áo thay đổi theo màu môi trường bao quanh khi Cắc Kè cần ngụy trang. Mắt của Cắc Ké rất to. Vì bản chất hiếu động và hiếu chiến, hiếu thắng, các anh Cắc Ké dễ bị thu hút bởi tiếng huýt gió của loài người. Vì tiếng huýt gió mà các anh chị Cắc Ké ngẩng đầu lên nên đầu bị lọt vào vòng thắt cổ của cần câu Cắc Ké.

Tuổi thọ của Cắc Ké trong trạng thái bị giam cầm là 2 đến 5 tuổi. Tùy theo giống và phái Cắc Ké trưởng thành có thể đạt đến 60cm chiều dài. Cắc Ké bắt đầu tuổi yêu đương khi được 6 tháng tuổi. Trong mùa yêu đương các anh Cắc Ké đấu đá với nhau để giành quyền yêu nữ phái. Các chị Cắc Ké mang bầu và sinh từ 15 đến 20 trứng. Chỉ có khoảng 35% trứng nở ra Cắc Ké con mà thôi.

Cắc Ké sống trên cây ăn các loại côn trùng, Nhện, xác thú chết sình thối. Cắc Ké rất hiếu chiến. Các anh chị ấy cắn rất đau nhưng không có nọc độc.

TỘC BÒ SÁT TUATARA

Sphenodon punctatus punctatus
Gia đình: Sphenodontidae

(Ảnh: https://nl.pinterest.com/)

Tộc Bò Sát Tuatara chỉ được tìm thấy trên đảo Tân Tây Lan ở Nam Bán Cầu. Theo ngôn ngữ người Maori, Tuatara là ‘đỉnh cao trên lưng’. Ɖó là những gai nhọn trên sống lưng các anh chị Bò Sát.

Tên khoa học của Bò Sát Tuatara là Sphenodon punctutus punctatus thuộc gia đình Sphenodontidae.

Bò Sát Tuatara dài từ 60 - 80cm, cân nặng từ 1,5kg đến 3kg. Các anh to lớn hơn các chị Tuatara. Nam, nữ phái tộc nầy mặc quần áo xám, trắng-xám, đen nhạt. Mặt mày các anh chị ấy trông bặm trợn dữ dằn. Tuatara giống Sấu hơn là Cắc Ké. Răng bén như răng cưa. Ɖuôi mạnh như đuôi của Ngạc tộc.

Bò Sát Tuatara có tam nhãn, không có tai và lá nhĩ nhưng thính giác rất tốt!

Tuổi trưởng thành của Bò Sát Tuatara bắt đầu từ 10 - 20 tuổi vì tuổi thọ của tộc Bò Sát Tuatara rất cao. Các chị Tuatara đẻ trứng. Các chị sinh 4 năm một lần. Vì vậy dân số Tuatara không đông. Tùy theo nhiệt độ của trứng ta có nhiều nam hay nữ Tuatara.

Nhiệt độ

Nam

Nữ

Nam Nữ tương quan

Trứng ấm

Nhiều hơn

Ít

Nam > Nữ

Trứng lạnh

Ít

Nhiều

Nam < Nữ

Trứng 27 độ C (70 độ F)

Bằng nhau

Bằng nhau

Nam = Nữ

Thức ăn: côn trùng, Ếch, Nhái, Nhện, Chim, xác thú.

Sống trên mặt đất gần các dòng nước và hoạt động ban đêm.

Tuổi thọ của Bò Sát Tuatara cao hơn tất cả động vật Bò Sát khác. Tuổi thọ kéo dài từ 60 đến 100 tuổi hay hơn.

***

Thưa quý vị, Trái Ɖất là một đấu trường và ái dục trường. Vạn vật hiện hữu trên Trái Ɖất để phải đấu tranh để sinh tồn theo qui luật thông thường:

Mạnh được, Yếu thua.

Khôn Sống, Dại chết.

Lừng khừng chịu thiệt.

Kẻ siêng năng được nhiều phúc lợi.

Kẻ biếng lười vô tội nhưng bị người đời khinh rẻ cười chê.

Có sống tất có chết.

Có sinh thì có diệt.

Có đấu tranh tất phải có đổ máu và chết chóc.

Nhưng vạn vật luôn luôn có tình yêu và tình dục trong bất cứ tình huống tốt xấu nào. Ái dục tạo sự sinh hóa bảo tồn dòng giống. Nhờ vậy Trái Ɖất không bao giờ vắng vẻ và ngưng đọng.

Ɖại Tộc Bò Sát chúng tôi chấp nhận những qui luật sinh tồn trên. Trong Tứ Linh đại tộc Bò Sát chúng tôi chiếm 50% với Long Tiên Sinh và Qui Ɖại Lão. Thú thật chúng tôi không thấy, không biết và không có tài liệu về Long Tiên Sinh. Chỉ nghe đồn Ngài mạnh lắm, chạy nhảy trên mặt đất, vẫy vùng trên biển cả, sông nước, ao hồ và bay bổng trên Trời cao. Các vua chúa Trung Hoa và các nước chịu ảnh hưởng Trung Hoa tự xem mình là Thiên Tử (Con Trời) và có sức mạnh vô địch đầy nét tượng trưng của Long Tiên Sinh. Họ cũng muốn được sống lâu như Qui Ɖại Lão. Nói vậy mà cũng có anh chàng Thạch Sanh nào đó chém Chằn bằng dao, rựa hay vật bén nhọn gì đó. Năm 1649 Cromwell giết Rồng Charles I ở London. Năm 1793 Robespierre giết Rồng Louis XVI ở Paris. Năm 1918 Lenin xử bắn gia đình Rồng Nicholas II ở Yekaterinburg.

Tranh Ɖông Hồ Tứ Linh Long, Lân, Qui, Phụng (Ảnh:https://tranhdongho.info/)

Một mặt loài người tỏ ra kính trọng, sợ sệt hai đại biểu trong Tứ Linh thuộc dòng Bò Sát của chúng tôi. Mặt khác họ giết Rồng, làm gỏi Qui bán ở các nhà hàng. Trong đệ nhị thế chiến tình trạng thiếu lương thực rất ngặt nghèo. Nhiều người dân nông thôn đi tìm chất dinh dưỡng bằng mọi phương tiện mà họ có thể. Trẻ em ở thôn quê đi câu Cắc Ké để nấu canh bầu, bắt Rắn Mối nướng ăn. Kỳ Nhông, Kỳ Ɖà đều bị ruồng bắt để lấy thịt, da và mật.

Loài người có tiếng nói, có văn tự nên biếm nhẽ đại tộc Bò Sát chúng tôi không ít. Nào là bọn Cắc Ké mà làm gì nên hồn. Nào là Kỳ Ɖà cản mũi; Kỳ Nhông đổi màu; Thằn Lằn đứt đuôi; Tắc Kè lửa (ám chỉ kẻ có thế lực), Tắc Kè đôi, bắt được rồi còn chối nữa thôi?; Nước mắt cá Sấu; Chậm như Rùa v.v..

Câu: Cắc Ké là mẹ Kỳ Nhông; Kỳ Nhông là ông Kỳ Ɖà; Kỳ Ɖà là bà Cắc Ké là những câu bắt vần:

É của chữ Cắc KÉ ra âm MẸ (♀) (2)

ÔNG của chữ Kỳ NHÔNG ra âm ÔNG (♂)

À của chữ Kỳ Ɖà ra âm BÀ (♀)

Câu nầy cho thấy loài động vật hai chân khinh rẻ đại tộc Bò Sát chúng tôi theo chế độ dòng tộc nội hôn (endogamy). Hình như loài người đâu đây vào thời gian nào cũng có chế độ như vậy. Vạn vật trong vũ trụ đều có quan hệ gắn bó với nhau. Những đặc tính tốt, xấu, hiền, dữ, đẹp, xấu xí hay vô thưởng vô phạt đều được tìm thấy trong thảo mộc, động vật và loài người.

Trong thực vật học người Anh dùng chữ Lizard’s tail để chỉ:

Trong Tinh Tú Học có sao Chameleon được chọn vào cuối thế kỷ XVI. Chòm sao nầy không sáng sủa lắm.

Cắc Ké, Tắc Kè, Thằn Lằn, Kỳ Nhông, Kỳ Ɖà không có mặt trong 12 con giáp và Ɖề 40 con. Rồng, Rắn có mặt trong 12 con giáp và trong số Ɖề. Rùa chỉ có mặt trong số Ɖề mà thôi. Thằn Lằn, Tắc Kè, Kỳ Ɖà có mặt trong các nhà thuốc Ɖông Y. Trong Ɖông Y thầy thuốc chữa bịnh cũng là dược sĩ bốc thuốc cho bịnh nhân. Thế là mỗi thành viên đại tộc Bò Sát đều có tầm quan trọng riêng trong xã hội loài người với thịt, da, mật và thân xác tán nhuyễn thành bột để làm thuốc.

Ɖến đây chúng tôi xin chấm dứt bài tham luận của đại tộc Bò Sát và chân thành cám ơn sự lắng nghe của toàn thể quý vị. Kính mời quý vị cùng chúng tôi đứng dậy dành một phút mặc niệm tưởng nhớ đến các chi tộc Tắc Kè (Cáp Giới), Kỳ Ɖà và Thạch Sùng Bích Hổ chết đau đớn trong các lò sấy hay trong các bình rượu thuốc của loài người.

Các đại biểu đều đứng dậy. Phút mặc niệm bắt đầu giữa tiếng ngâm thơ trầm buồn của nữ sĩ Hoàng Yến Serinus canaria domestica, gia đình Fringillidae, góc trên quần đảo Madeira ngoài khơi Ɖại Tây Dương. Các đại biểu trong hội trường đều rơi nước mắt và khóc sụt sùi vì bài thơ của nữ sĩ Hoàng Yến.

Trưởng Lão Cự Ɖà Mexico Iguana Iguana.

.

Phạm Ɖình Lân, F.A.B.I.

__________

(1) : Miết Giáp: Mai Rùa hay Ba Ba. Ba Ba mang tên khoa học Trionyx sinensis và nhiều tên khác như Pelodiscus sinensis tuberculatus thuộc gia đình Trionychidae. Tên dược học của miết giáp (solf-shelled turtle) là Carapax trionycis. Trong Ɖông Y Miết Giáp là một vị thuốc dùng để trị sốt rét, xơ gan, suyễn v.v.. Miết giáp có nhiều keratin, sinh tố D, amino acid, fatty acid.

(2): ♂: Nam (giống đực); ♀: nữ (giống cái).

 

Direct link: http://www.caidinh.com/trangluu1/khoahockythuat/daitocbosat.htm


Cái Đình - 2020